MediaWiki:Quan tam phap: Difference between revisions
Wikibadboy (talk | contribs) No edit summary |
Wikibadboy (talk | contribs) No edit summary |
||
Line 136: | Line 136: | ||
<p>Nhưng tánh của tham sân si cũng không thật chỉ tùy thuận chúng sanh mà nói vậy thôi, nếu ai có thể soi trở vào trong thì thấy rõ tánh của tham sân si tức là tánh Phật, ngoài tham sân si không có tánh Phật nào khác.</p> | <p>Nhưng tánh của tham sân si cũng không thật chỉ tùy thuận chúng sanh mà nói vậy thôi, nếu ai có thể soi trở vào trong thì thấy rõ tánh của tham sân si tức là tánh Phật, ngoài tham sân si không có tánh Phật nào khác.</p> | ||
<p>Nếu ai biết được 6 căn không thật 5 uẩn giả danh khắp thân tìm cầu hết thảy đều không có chỗ nhất định, phải biết người đó rõ được nghĩa Phật nói, kinh nói hang ổ của 5 uẩn là thiền viện, soi trở vào trong được tỏ ngộ là môn đại thừa há chẳng rõ chẳng chứa tất cả pháp gọi là thiền định, nếu rõ được câu này thì đi đứng nằm ngồi đều là thiền định.</p> | <p>Nếu ai biết được 6 căn không thật 5 uẩn giả danh khắp thân tìm cầu hết thảy đều không có chỗ nhất định, phải biết người đó rõ được nghĩa Phật nói, kinh nói hang ổ của 5 uẩn là thiền viện, soi trở vào trong được tỏ ngộ là môn đại thừa há chẳng rõ chẳng chứa tất cả pháp gọi là thiền định, nếu rõ được câu này thì đi đứng nằm ngồi đều là thiền định.</p> | ||
<h3 style="font-size: 24px;"> | <h3 style="font-size: 24px;">Đại thiền định</h3> | ||
<p>Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật, lìa chấp thân chẳng tiếc gọi là đại bố thí, lìa các động tịnh gọi là đại toạ thiền, vì phàm phu 1 niệm chấp động tiểu thừa 1 niệm chấp định, nếu vượt khỏi cái tọa thiền của tiểu thừa và phàm phu thì gọi là đại tọa thiền, nếu nhận được như thế thì tất cả các tướng chẳng tìm cũng tự rõ tất cả các bệnh chẳng trị cũng tự khỏi đó là nhờ sức đại thiền định.</p> | <p>Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật, lìa chấp thân chẳng tiếc gọi là đại bố thí, lìa các động tịnh gọi là đại toạ thiền, vì phàm phu 1 niệm chấp động tiểu thừa 1 niệm chấp định, nếu vượt khỏi cái tọa thiền của tiểu thừa và phàm phu thì gọi là đại tọa thiền, nếu nhận được như thế thì tất cả các tướng chẳng tìm cũng tự rõ tất cả các bệnh chẳng trị cũng tự khỏi đó là nhờ sức đại thiền định.</p> | ||
<p>Phàm ai đem tâm mà cầu Pháp đều là mê, chẳng đem tâm cầu Pháp là ngộ, chẳng đắm chấp văn tự gọi là giải thoát, chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ Pháp, lìa khỏi sanh tử gọi là xuất gia, chẳng thọ báo sau này gọi là đắc Đạo, chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết Bàn, chẳng kẹt trong vô minh gọi là đại trí huệ, đến chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn, đến chỗ không có tướng tâm gọi là qua bờ bên kia.</p> | <p>Phàm ai đem tâm mà cầu Pháp đều là mê, chẳng đem tâm cầu Pháp là ngộ, chẳng đắm chấp văn tự gọi là giải thoát, chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ Pháp, lìa khỏi sanh tử gọi là xuất gia, chẳng thọ báo sau này gọi là đắc Đạo, chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết Bàn, chẳng kẹt trong vô minh gọi là đại trí huệ, đến chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn, đến chỗ không có tướng tâm gọi là qua bờ bên kia.</p> | ||
<h3 style="font-size: 24px;">Định vô thiền</h3> | |||
<p>Khi mê thì có bờ bên đây, khi ngộ rồi thì bờ bên đây cũng không có vì phàm phu 1 niệm chấp bên đây nếu tỏ ngộ được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên đây cũng chẳng trụ bên kia nên lìa được cả đây kia vậy, nếu thấy bờ bên kia chẳng khác hơn bờ bên đây cái tâm của người ấy đã được cái định vô thiền.</p> | <p>Khi mê thì có bờ bên đây, khi ngộ rồi thì bờ bên đây cũng không có vì phàm phu 1 niệm chấp bên đây nếu tỏ ngộ được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên đây cũng chẳng trụ bên kia nên lìa được cả đây kia vậy, nếu thấy bờ bên kia chẳng khác hơn bờ bên đây cái tâm của người ấy đã được cái định vô thiền.</p> | ||
<p>Phiền não gọi là chúng sanh, tỏ ngộ gọi là Bồ Ðề cũng chẳng 1 chẳng khác chỉ khác nhau ở mê ngộ, khi mê có thế gian để ra khỏi khi ngộ không có thế gian để ra, trong Pháp bình đẳng chẳng thấy phàm phu khác với Thánh nhơn.</p> | <p>Phiền não gọi là chúng sanh, tỏ ngộ gọi là Bồ Ðề cũng chẳng 1 chẳng khác chỉ khác nhau ở mê ngộ, khi mê có thế gian để ra khỏi khi ngộ không có thế gian để ra, trong Pháp bình đẳng chẳng thấy phàm phu khác với Thánh nhơn.</p> | ||
<h3 style="font-size: 24px;">Bình đẳng tâm</h3> | |||
<p>Nếu thấy sanh khác với tử động khác với tĩnh đều gọi là chẳng bình đẳng, chẳng thấy phiền não khác với Niết Bàn thế mới gọi là bình đẳng, vì phiền não và Niết Bàn cùng 1 tánh không cho nên người nhị thừa vọng dứt trừ phiền não vọng nhập Niết Bàn tự tạo Niết Bàn để trói buộc, còn Bồ Tát biết được tánh phiền não vốn không nên chẳng lìa không thường ở Niết Bàn.</p> | <p>Nếu thấy sanh khác với tử động khác với tĩnh đều gọi là chẳng bình đẳng, chẳng thấy phiền não khác với Niết Bàn thế mới gọi là bình đẳng, vì phiền não và Niết Bàn cùng 1 tánh không cho nên người nhị thừa vọng dứt trừ phiền não vọng nhập Niết Bàn tự tạo Niết Bàn để trói buộc, còn Bồ Tát biết được tánh phiền não vốn không nên chẳng lìa không thường ở Niết Bàn.</p> | ||
<p>Niết Bàn nghĩa là khơi mà chẳng sanh tịch mà chẳng chết vượt khỏi sanh tử là Bát Niết Bàn, tâm không có đi và đến là nhập Niết Bàn, thế mới biết Niết Bàn tức là tâm không.</p> | <p>Niết Bàn nghĩa là khơi mà chẳng sanh tịch mà chẳng chết vượt khỏi sanh tử là Bát Niết Bàn, tâm không có đi và đến là nhập Niết Bàn, thế mới biết Niết Bàn tức là tâm không.</p> |
Revision as of 15:39, 10 September 2024
Quán tâm Pháp
quán tâm | Sep 10, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Quán tâm Pháp là tài liệu ghi lại phần luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma trong quyển sách Bồ Đề Đạt Ma quán tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông Phú Định vào năm 1973.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma sinh làm con trai thứ 3 của một vị vua Ấn Độ được coi là người truyền bá và sáng lập ra thiền học cùng võ thuật tới Trung Quốc, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu con đường giác ngộ nhờ vào 2 câu nghi tình trong cẩm nang do bậc Thánh Tăng để lại "Trước khi sinh ra ai là ta? Khi sinh ra rồi ta là ai?".
Quán tâm Pháp có 3 thiên luận về huyết mạch - ngộ tánh - phá tướng được itvtbadboy kết hợp bản gốc và lời dạy trong đường lối thực hành Tổ Sư thiền biên soạn lấy ra nội dung cơ bản cho mục đích thành tựu tầng đầu tiên nhất thiền không phân biệt ngộ tính sâu cạn.
Quán huyết mạch
huyết mạch | Sep 10, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Huyết mạch dùng để chỉ cho sự truyền thừa giáo Pháp, quán huyết mạch biểu thị ý nghĩa lưu thông liên tục không ngừng vì thế Pháp môn được truyền nối giữa Thầy và Trò còn gọi là huyết mạch tương thừa.
Ba cõi lăng xăng đều từ một tâm, Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm chẳng lập văn tự.
Lấy gì là tâm
Hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?
Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi, nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông, ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi, cho nên biết hỏi tôi tức là tâm của ông đó.
Từ lũy kiếp đến giờ, dẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông đều là Phật vốn có của ông, ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được, nếu lìa tâm này mà tìm Bồ Đề Niết Bàn thì thật là không tưởng.
Tánh chơn thật của mình không phải Pháp nhân Pháp quả đó là nghĩa của tâm, tự tâm là Niết Bàn, nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ Đề có thể được thì thật là không tưởng.
Phật ở chỗ nào
Hỏi: Phật và Bồ Đề ở chỗ nào?
Đáp: Ví như có người dang tay bắt hư không sao lại không được, vì hư không chỉ có tên chớ nào có hình tướng bắt đã chẳng được bỏ cũng chẳng được, trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy.
Phật là tự tâm làm ra tại sao phải lìa tâm mà tìm Phật, Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm, tâm tức là Phật Phật tức là tâm, ngoài tâm không Phật ngoài Phật không tâm, nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu?
Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do, nếu không tin hiểu như thế để tự dối gạt thật là vô ích.
Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật, nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.
Phật chẳng độ Phật, nếu đem tâm tìm Phật là chẳng biết Phật là chỉ tự tâm, những người đi tìm Phật hết thảy đều chẳng biết tự tâm là Phật, cũng chớ nên đem Phật lễ Phật đem tâm niệm Phật.
Phật chẳng tụng kinh chẳng giữ giới chẳng phạm giới, Phật không có giữ và phạm cũng chẳng tạo thiện tạo ác, nếu chẳng thấy tánh thì niệm Phật tụng kinh ăn chay giữ giới cũng không ích lợi gì.
Niệm Phật chẳng qua được nhân quả, tụng kinh chẳng qua được thông minh, giữ giới chẳng qua được sanh lên cõi Trời, bố thí chẳng qua được phước báo, tìm Phật quyết định không thể được.
Nếu tự mình không thấu suốt thì phải nên tìm tham học với thiện tri thức nào đã dứt khoát nguồn cội sanh tử, nếu chẳng thấy tánh thì không được gọi là thiện tri thức, nếu không như thế dẫu cho có giảng được hết cả kinh Phật cũng chẳng khỏi sanh tử luân hồi vẫn ở trong ba cõi chịu khổ mãi mãi.
Người nay bất quá giảng được năm ba bốn kinh luận rồi vội cho là mình thực hành pháp Phật đó là thuộc về hạng người mê, nếu chẳng biết tự tâm chỉ tụng theo suông mặt chữ của kinh đều là vô dụng.
Nếu muốn tìm Phật phải nên thấy tánh, tánh tức là Phật Phật tức là người tự tại rảnh rang vô sự, nếu chẳng thấy tánh suốt ngày chật vật rong ruổi ra ngoài mà tìm thì tìm làm sao được.
Nhắm mắt ra sao
Hỏi: Khi nhắm mắt rồi ra sao?
Đáp: Sanh tử việc lớn không được phép để luống trôi qua tự dối gạt vô ích, dẫu có của quí như non quyến thuộc như cát sông Hằng, mở mắt thấy đó phải biết các Pháp hữu vi đều như giấc mơ như huyễn hóa.
Nếu chẳng gấp tìm Thầy học Đạo luống uổng một kiếp trôi qua, tuy rằng tánh Phật ai cũng vốn tự có nhưng nếu chẳng nhờ Thầy chỉ giáo rốt không thể tỏ ngộ, những bật chẳng nhờ Thầy mà tỏ ngộ chỉ là hy hữu trong muôn một mà thôi, nếu tự mình được nhân duyên hợp ý Thánh thì không cần phải tham học với thiện tri thức, trường hợp này gọi là sanh ra đã biết còn hơn vậy.
Nếu chưa minh bạch được đen trắng mà kỳ vọng nói tuyên bày giáo Pháp của Phật chê Phật kỵ Pháp, những bọn như thế thuyết pháp như thế hết thảy đều là ma nói không phải Phật nói, tức là ma vương gạt gẫm tất cả chúng sanh cho vào cõi ma, người mê chịu cho chúng nó chỉ huy chẳng được giác ngộ đoạ vào biển sanh tử chỉ vì chẳng thấy tánh vọng xưng là Phật.
Có được thành Phật
Hỏi: Nếu chẳng thấy tánh có được thành Phật?
Đáp: Nếu có chút Pháp nào có thể được là Pháp hữu vi là Pháp nhân quả là Pháp thọ báo là Pháp luân hồi, không khỏi sanh tử biết chừng nào mà thành Phật.
Muốn thành Phật phải thấy tánh, nếu chẳng giác ngộ bổn tánh thì nói những nào nhân nào quả đều là Pháp ngoại đạo, nếu là Phật thì chẳng tập theo Pháp ngoại đạo.
Phật là người không nghiệp không nhân quả, nếu nói có chút Pháp có thể được đều là chê bai Phật đó, căn cứ nơi đâu mà được thành Phật dẫu cho chỉ trụ chấp 1 tâm 1 năng 1 giải 1 thấy cũng đều bị Phật chẳng thừa nhận.
Phật không giữ và phạm, tâm tánh vốn không cũng không phải các Pháp dơ sạch không tu không chứng không nhân không quả, Phật chẳng giữ giới chẳng tu thiện chẳng tạo ác chẳng tinh tiến chẳng giải đãi, Phật là người vô tác nếu có tâm đắm chấp để thấy Phật là bị không thừa nhận rồi, nếu chẳng thấy nghĩa này thì luôn luôn ở đâu cũng đều là mê muội bổn tâm, nếu chẳng thấy tánh mà luôn tưởng tượng ra làm cái rảnh rang vô tác đó là tội nhân lớn, là người si rơi vào ngoan không vô ký ngây ngây như người say chẳng phân được tốt xấu.
Có người cho rằng không nhân quả tha hồ mà tạo nghiệp ác vọng nói vốn không làm ác không tội, con người như thế sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián tối tăm mãi mãi, nếu là người trí không nên hiểu như thế.
Lễ Phật Bồ Tát
Hỏi: Tại sao không được lễ Phật, Bồ Tát?
Đáp: Thiên ma Ba Tuần hay A Tu La cũng hiện thần thông làm được tướng Bồ Tát và nhiều cách biến hóa đó là ngoại đạo chớ không phải Phật, Phật là tự tâm đừng lầm lễ lạy.
Chữ Phật là tiếng Ấn Độ theo xứ ta gọi là tánh giác, giác nghĩa là linh giác ứng cơ tiếp vật nhướng mày liếc mắt động tay máy chân đều là tánh linh giác của mình, tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là Đạo, Đạo tức là thiền.
Nội 1 chữ thiền phàm Thánh cũng khó lường được Đạo cả sâu mầu không thể dùng lời mà tỏ hết vậy kinh điển căn cứ nơi đâu mà có thể đến được, chỉ thấy bổn tánh dầu cho không biết một chữ cũng là thấy tánh tức là Thánh thể.
Đạo vốn viên thành chẳng phải tu chứng, Đạo không phải sắc thinh vi diệu khó thấy, chỉ như người uống nước lạnh ấm tự biết mà thôi không thể nói cho người khác nghe được, chỉ có Như Lai biết được ngoài ra người Trời các loại đều không hay biết.
Vì trí phàm phu không đến được nên mới chấp tướng chẳng rõ tự tâm vốn vắng lặng rỗng rang nên mới đọa ngoại đạo, nếu biết đều từ tâm sanh thì chẳng nên chấp, chấp là chẳng biết Đạo vốn không nói năng, nói năng là vọng.
Người tu đêm đến có nằm mơ thấy lâu đài cung điện voi ngựa hoặc cây cối rừng ao... chớ nên mống lòng tham đắm vì hết thảy cảnh ấy đều là chỗ để thác sanh, điều này phải hết sức chú ý.
Khi lâm chung chẳng nên chấp tướng thì chướng liền trừ, nếu tâm nghi phát khởi là bị ma nhiếp, Pháp thân bổn lai thanh tịnh không thọ lãnh 1 điều gì chỉ vì mê muội không hay biết nên vọng thọ báo mất tự do, nếu ngộ được bổn tâm thì chẳng đắm nhiễm.
Phàm phu thần thức mê muội chớ không phải trong ngoài sáng suốt như Thánh nhơn, nếu có chỗ nghi thì chớ nên làm, làm là bị trôi lăn theo sanh tử khi ăn năn đã muộn, nghèo cùng khốn khó đều từ vọng tưởng sanh, nếu ai tỏ được tâm này thì nên lần lượt khuyên bảo lẫn nhau chỉ làm mà không trụ không chấp là vào được tri kiến Như Lai.
Nếu chẳng thấy tánh chớ nên bắt chước chê bai những người lương thiện tự dối gạt vô ích, thiện ác rõ ràng nhân quả phân minh thiên đường địa ngục chỉ ở trước mắt, người ngu chẳng biết hiện đọa vào địa ngục tối tăm cũng không hay.
Vợ con dâm dục
Hỏi: Cư sĩ còn vợ con, dâm dục làm sao thành Phật được?
Đáp: Chỉ nói thấy tánh chẳng bàn đến dâm dục, miễn được thấy tánh thì dâm dục vốn tự rỗng lặng tự nhiên dứt trừ không còn tham đắm nữa, dẫu cho dư tập hãy còn cũng chẳng làm hại được.
Vì tự tánh vốn nó tự thanh tịnh, tuy ở trong sắc thân 5 uẩn tánh nó cũng vốn thanh tịnh không ô nhiễm, Pháp thân bổn lai không thọ không đói không khát không lạnh nóng không bệnh hoạn không ân ái không quyến thuộc không khổ vui tốt xấu không vắn dài mạnh yếu.
Vốn không 1 vật có thể được chỉ vì cố chấp cái thân này nên mới có các tướng đói khát lạnh nóng bệnh chướng... nếu chẳng chấp là được tự tại chuyển trở lại các Pháp đừng để các Pháp chuyển, cũng như Thánh nhơn thì ở đâu lại không yên.
Đồ tể thành Phật
Hỏi: Đồ tể làm nghiệp sát sanh làm sao thành Phật được?
Đáp: Chỉ nói thấy tánh chẳng nói tạo nghiệp, dẫu sao có tạo nghiệp thế nào nghiệp cũng không thể trói buộc được, nếu chẳng thấy tánh niệm Phật để khỏi nhân quả cũng không thể được, không luận là sát sanh.
Nếu được thấy tánh tâm sát liền trừ, nghiệp sau cũng không thể trói buộc được nên 27 vị tổ ở Tây Trúc chỉ truyền nhau tâm ấn chớ chẳng nói đến giữ giới tinh tiến khổ hạnh vào nước vào lửa leo lên gươm đao ăn 1 ngày 1 bữa ngồi hoài chẳng nằm.
Quán ngộ tánh
ngộ tánh | Sep 10, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Quán ngộ tánh vả chăng Đạo là lấy vắng lặng làm thể tu là lấy lìa tướng làm tông nên kinh nói lìa tất cả các tướng là danh hiệu chư Phật, thế mới biết có tướng mà không tướng không thể dùng mắt thấy chỉ có thể dùng trí biết.
Ai nghe pháp này mà sanh một niệm lòng tin phải biết người đó đã phát tâm đại thừa siêu 3 cõi, 3 cõi tức là tham sân si đổi tham sân si ra thành giới định huệ tức gọi là siêu 3 cõi.
Nhưng tánh của tham sân si cũng không thật chỉ tùy thuận chúng sanh mà nói vậy thôi, nếu ai có thể soi trở vào trong thì thấy rõ tánh của tham sân si tức là tánh Phật, ngoài tham sân si không có tánh Phật nào khác.
Nếu ai biết được 6 căn không thật 5 uẩn giả danh khắp thân tìm cầu hết thảy đều không có chỗ nhất định, phải biết người đó rõ được nghĩa Phật nói, kinh nói hang ổ của 5 uẩn là thiền viện, soi trở vào trong được tỏ ngộ là môn đại thừa há chẳng rõ chẳng chứa tất cả pháp gọi là thiền định, nếu rõ được câu này thì đi đứng nằm ngồi đều là thiền định.
Đại thiền định
Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật, lìa chấp thân chẳng tiếc gọi là đại bố thí, lìa các động tịnh gọi là đại toạ thiền, vì phàm phu 1 niệm chấp động tiểu thừa 1 niệm chấp định, nếu vượt khỏi cái tọa thiền của tiểu thừa và phàm phu thì gọi là đại tọa thiền, nếu nhận được như thế thì tất cả các tướng chẳng tìm cũng tự rõ tất cả các bệnh chẳng trị cũng tự khỏi đó là nhờ sức đại thiền định.
Phàm ai đem tâm mà cầu Pháp đều là mê, chẳng đem tâm cầu Pháp là ngộ, chẳng đắm chấp văn tự gọi là giải thoát, chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ Pháp, lìa khỏi sanh tử gọi là xuất gia, chẳng thọ báo sau này gọi là đắc Đạo, chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết Bàn, chẳng kẹt trong vô minh gọi là đại trí huệ, đến chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn, đến chỗ không có tướng tâm gọi là qua bờ bên kia.
Định vô thiền
Khi mê thì có bờ bên đây, khi ngộ rồi thì bờ bên đây cũng không có vì phàm phu 1 niệm chấp bên đây nếu tỏ ngộ được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên đây cũng chẳng trụ bên kia nên lìa được cả đây kia vậy, nếu thấy bờ bên kia chẳng khác hơn bờ bên đây cái tâm của người ấy đã được cái định vô thiền.
Phiền não gọi là chúng sanh, tỏ ngộ gọi là Bồ Ðề cũng chẳng 1 chẳng khác chỉ khác nhau ở mê ngộ, khi mê có thế gian để ra khỏi khi ngộ không có thế gian để ra, trong Pháp bình đẳng chẳng thấy phàm phu khác với Thánh nhơn.
Bình đẳng tâm
Nếu thấy sanh khác với tử động khác với tĩnh đều gọi là chẳng bình đẳng, chẳng thấy phiền não khác với Niết Bàn thế mới gọi là bình đẳng, vì phiền não và Niết Bàn cùng 1 tánh không cho nên người nhị thừa vọng dứt trừ phiền não vọng nhập Niết Bàn tự tạo Niết Bàn để trói buộc, còn Bồ Tát biết được tánh phiền não vốn không nên chẳng lìa không thường ở Niết Bàn.
Niết Bàn nghĩa là khơi mà chẳng sanh tịch mà chẳng chết vượt khỏi sanh tử là Bát Niết Bàn, tâm không có đi và đến là nhập Niết Bàn, thế mới biết Niết Bàn tức là tâm không.
Nhân quả súc sinh
súc sinh | Sep 10, 2024 | hậu quả |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Nhân quả súc sinh hình thành do tánh si mê không biết rõ thiện ác tội phước chánh tà, là báo tướng chim cá rắn chó trâu lừa ngựa côn trùng... với hình phạt ngu si không được gần Phật không được nghe hiểu Pháp, tương lai không biết bao nhiêu ức kiếp hoàn toàn tối đen như mực có thể nhận thấy dễ dàng ở trước mắt.
Nhân quả súc sinh phải chịu đựng năm loại khổ gồm nỗi khổ ăn thịt lẫn nhau, nỗi khổ do ngu si ám chướng, nỗi khổ chịu nóng lạnh, nỗi khổ chịu đói khát, nỗi khổ bị khai thác đọa đày hoặc sai làm việc nặng, các loài thú không lúc nào thảnh thơi vì phải chiến đấu sinh tồn vừa lo kiếm ăn qua ngày vừa đề phòng bị con thú khác ăn thịt, nỗi khổ đói khát khi không kiếm được thức ăn cũng không thua gì loài ngạ quỷ.
Nhân |
Quả |
|
Lấy nước đổ vào trong rượu rồi bán cho người ta. |
Đọa loài trùng trong nước, khi sanh cõi nhân gian mắc chứng bệnh thủng và đoản khí mà chết. |
|
Nghe tiếng chuông không ngồi dậy. |
Đọa loài trăn thân to dài bị vi trùng moi rúc ăn. |
|
Ham cởi trần ngồi. |
Đọa loài trùng hàn vọ. |
|
Người hay kiêu mạn. |
Đọa loài bọ trong đống phân hoặc làm lừa chở nặng loài chó loài ngựa, nếu được sanh làm người phải đọa làm thân nô tỳ nghèo cùng ăn mày bị mọi người khinh rẻ. |
|
Gặp Phật Pháp mà ngu si chẳng hiểu Đạo. |
Đọa loài voi lợn trâu dê trâu nước rận chí ruồi muỗi kiến, nếu được làm người thì mù điếc câm ngọng gù còng các căn không đủ không hay thọ giáo Pháp. |
|
Người hay giận tức. |
Đọa loài rắn độc sư tử hổ báo gấu bi mèo hồ chim ưng gà, nếu được làm người hay nuôi gà lợn, kẻ mổ giết trâu lợn kẻ săn bắn kẻ chài lưới bắt cá và quân canh ngục. |
|
Đào tường khoét vách ăn trộm, tham của đầy lòng oán giận không có tình thân sơ. |
Đọa loài chuột. |
|
Ngồi một mình ăn, đêm ít ngủ. |
Đọa loài hồ ly. |
|
Lời nói ra có tánh giận tức, không quan sát nguyên do ý nghĩa, miệng thở ra lửa độc. |
Đọa loài giống bọ cạp rết mọt gỗ. |
|
Mắt có sắc đỏ răng ngắn, khi nói thì sùi bọt mép như xà bông, nằm thì cuộn mình lại. |
Đọa loài trăn rắn. |
|
Thể vóc bé nhỏ, ham dâm dục, ý chẳng chuyên định, thấy sắc đẹp sanh tâm say mê. |
Đọa loài chim sẻ. |
|
Hay vui trong nhân chúng, lời nói nhiều phiền phức. |
Đọa loài chim yểng. |
|
Ham dâm dục và hay nói, lại được nhiều người yêu. |
Đọa loài chim vẹt. |
|
Không ham mặc đẹp, tánh hay rình bắt kẻ gian phi và ít ngủ, đa sân nộ. |
Đọa loài chó. |
|
Có lực khỏe mạnh và cường tráng, ít dâm dục, không yêu vợ con. |
Đọa loài chó sói. |
|
Có tánh phản phúc, lại hay sát hại sâu trùng. |
Đọa loài dã hồ. |
|
Lông trên mình dài, mắt nhỏ, không muốn ở yên chỗ. |
Đọa loài chim. |
|
Hay tham ăn thịt, làm gì cũng không sợ. |
Đọa loài sư tử. |
|
Tiếng nói to hồm hỗm, không biết hổ thẹn, nhiều ái niệm không phân biệt phải trái. |
Đọa loài lừa. |
|
Hay xông pha đi nắng đi rét, tâm không ghi nhớ. |
Đọa loài trâu. |
|
Hay đi đây đi đó, ăn khỏe, không tránh nguy hiểm khó khăn. |
Đọa loài ngựa. |
|
Thân người rất hôi thối nhơ bẩn, đầy lòng giận tức khó bỏ gỡ. |
Đọa loài lạc đà. |
|
Nghe thuyết Pháp mà nói chuyện làm ồn. |
Đọa loài chim bách thiệt. |
|
Đi giầy dép vào chùa, tịnh xá. |
Đọa loài ếch nhái chuột bọ. |
|
Ngồi trên hoặc đạp vào tháp thờ. |
Đọa loài lạc đà. |
|
Vợ chồng nằm ngủ với nhau trong chùa. |
Đọa loài trùng thanh. |
|
Mặc áo màu sặc sỡ vào chùa. |
Đọa loài chim lệ. |
|
Mặc áo vằn khói bôi phấn đánh môi son vào chùa. |
Đọa loài chim mỏ đỏ. |
|
Nhổ khạc trong đất chùa. |
Đọa loài chim dài mỏ. |
|
Lạm dụng các đồ vật của tăng. |
Đọa loài thiêu thân. |
|
Bất kính ngồi giường của tăng. |
Đọa loài lươn, loài lịch. |
|
Lạm dụng, ăn rau của tăng. |
Đọa loài sâu ở các thứ rau đắng. |
|
Nhục mạ chúng tăng. |
Đọa loài trùng ở cổ trâu. |
|
Cưỡng xin của chúng tăng. |
Đọa loài chim bồ câu trắng. |
|
Ăn trộm của chúng tăng. |
Đọa loài trâu lừa kéo cối nghiến. |
|
Lấy trộm quả trái của chúng tăng. |
Đọa loài trùng ăn bùn đất. |
|
Làm bẩn đất chúng tăng. |
Đọa loài trùng ở chốn bẩn. |
|
Lạm dụng nước của chư tăng. |
Đọa loài cá giải. |
|
Dùng cối giã của tăng chúng. |
Đọa loài trùng gục đầu. |
|
Buộc người phải ăn dè xẻn nghĩa là bớt phần ăn của người. |
Đọa loài mọt gặm gỗ. |
|
Hay phóng hạ khí. |
Đọa loài trùng khí bàn. |
|
Đi guốc, dép vào chùa. |
Đọa loài có móng như móng ngựa. |
|
Hay làm cho người ta sợ hãi kinh khủng. |
Đọa loài hươu nai. |
|
Hay nói làm cho người ta bị ương họa tù tội. |
Đọa loài thú dã hồ. |
|
Hay tuyên truyền điều ác làm cho người ta tin. |
Đọa loài chim cú, chim cắt. |
|
Hay làm buồn não người. |
Đọa loài trùng ảo não. |
|
Hay chế diễu người. |
Đọa loài trăn, rắn ác độc. |
|
Hay nhái tiếng người hoặc hài hước điệu người. |
Đọa loài chim vẹt. |
|
Ưa thích mặc áo sặc sỡ các sắc lòe loẹt. |
Đọa loài chim loang lỗ. |
|
Hay nằm ăn. |
Đọa loài lợn. |
|
Hay mặc áo dài lượt thượt. |
Đọa loài trùng đuôi dài. |
|
Hay đeo tràng hoa. |
Đọa loài sâu trùng mình có hoa. |
|
Ham sát sanh. |
Đọa loài hoang thú hổ báo chó sói. |
|
Sẻn tiếc kinh thư, che giấu trí huệ không chịu nói cho người. |
Đọa loài trùng ăn đất ăn gỗ. |
|
Hay thông dâm với chính họ. |
Đọa loài chim công, chim sẻ. |
|
Ham thông dâm với phụ nữ người ta. |
Đọa loài ngan vịt. |
|
Đa tham. |
Đọa loài chó. |
Nhân quả đời người
đời người | Sep 10, 2024 | hậu quả |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Nhân quả đời người hình thành nếu con người biết sống đúng cách, là lợi ích lớn nhất trong tất cả các cõi luân hồi về mặt tu hành giải thoát vì dễ nghe và làm theo Chánh Pháp khi sự hạnh phúc đau khổ đều ở khoảng giữa so với các cõi khác.
Nhân quả đời người khác với các cõi ở chỗ chúng sinh ngạ quỷ địa ngục gánh lấy hình phạt đau khổ chỉ có thể chịu đựng chứ không thể tự vươn lên, chúng sinh cõi Thần có nhiều bạo lực nên không thể làm theo chánh pháp, chúng sinh cõi Trời chỉ hưởng thụ phước của họ mà quên đi việc tu tập.
Nhân quả đời người Đức Phật đã ví cơ hội được sinh lại làm người giống như một con rùa mù trăm năm mới nổi lên một lần, nguyên nhân do chúng ta thường phí thời gian cuộc đời vào các nhu cầu vật chất gia tăng các cảm xúc hành động và ý nghĩ không tốt.
Nhân |
Quả |
|
Yêu thương kính trọng người cô độc. |
Cha mẹ song toàn. |
|
Yêu thích lao động giúp đời. |
Sức mạnh cường tráng. |
|
Xưa xả thí thuốc cứu người. |
Sống lâu khỏe mạnh. |
|
Xả nhiều xà bông, thuốc tẩy xuống ao hồ. |
Nhà ở trong vùng nước hôi. |
|
Vứt bỏ Kinh sách nơi không trang nghiêm. |
Sinh ra ngu dốt không gặp được Phật Pháp. |
|
Tu tập mà không tạo phước. |
Cuộc sống khổ cực không tiện nghi, tâm khó nhiếp. |
|
Ủng hộ tiền bạc, công sức cất trường. |
Học hành đỗ đạt nhiều nơi. |
|
Tụng Kinh giảng Pháp chẳng lắng nghe. |
Ngu điếc. |
|
Truyền bá tín ngưỡng không chân chính. |
Làm gì cũng sai, nghĩ gì cũng sai. |
|
Trước kia phung phí thức ăn. |
Bây giờ có lúc nhọc nhằn mưu sinh. |
|
Trước kia nghiêm khắc với người xấu. |
Sau này được nhiều uy đức. |
|
Trước kia thu lợi bất chính. |
Sau này con cháu hư hỏng. |
|
Trước kia cho tiền để người làm việc sai trái. |
Họ mắc quả báo gì thì mình mắc quả báo đó. |
|
Trù dập người tài. |
Trở thành người bất tài. |
|
Trọn lòng tôn kính Như Lai. |
Ắt rằng Thánh quả có ngày chứng nên. |
|
Tôn trọng mọi người. |
Tài năng của thiên hạ dồn về mình. |
|
Trong hoàn cảnh khó khăn vẫn giúp người nghèo khổ. |
Thoát kiếp nghèo. |
|
Tôn kính cúng dường bậc Thánh. |
Đắc Đạo cao siêu. |
|
Tiết lộ bí mật của người hay của quốc gia gây hậu quả nghiêm trọng. |
Kiếp sau không nói được và nhiều quả báo thê thảm. |
|
Thường phóng sinh thả chim thú. |
Sống lâu, đông con cháu quyến thuộc. |
|
Thờ Phật ở tầng dưới, đi lại ở tầng trên. |
Thất bại này nối tiếp tai nạn kia. |
|
Thường làm phim viết sách đồi trụy. |
Điên loạn, khổ đau, gia đình đổ vỡ. |
|
Thương con chỉ biết nuông chiều. |
Sau này hết phước trăm điều khổ đau. |
|
Thọ ơn người xấu. |
Đi theo con đường xấu. |
|
Thọ nhiều ân nghĩa. |
Nặng lòng nhớ thương. |
|
Thắp sáng nơi công cộng. |
Sáng mắt. |
|
Thọ nhận tài vật bất chính. |
Liên lụy tai họa với người ta. |
|
Thầy thuốc chữa bệnh không hết lòng. |
Không làm nghề thuốc nữa. |
|
Thấy người bị hoạn nạn mà không giúp. |
Bị mù. |
|
Thái độ yêu quý tôn trọng mọi người. |
Gương mặt khả ái phúc hậu. |
|
Suy nghĩ xai súc phạm bậc Thánh. |
Tự khởi những ý nghĩ làm điều xấu xa, xằng bậy. |
|
Suy nghĩ xai súc phạm bậc Thánh. |
Tự khởi những ý nghĩ làm điều xấu xa, xằng bậy. |
- Nhan-qua-suc-sinh.jpg
- Nhan-qua-doi-nguoi.jpg