Quán tâm Pháp - Vạn Pháp quy tâm
Quán tâm Pháp
quán tâm | Sep 12, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Quán tâm Pháp là tài liệu ghi lại phần luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma trong quyển sách Bồ Đề Đạt Ma quán tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông Phú Định vào năm 1973.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma sinh làm con trai thứ 3 của một vị vua Ấn Độ được coi là người truyền bá và sáng lập ra thiền học cùng võ thuật tới Trung Quốc, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu con đường giác ngộ nhờ vào 2 câu nghi tình trong cẩm nang do bậc Thánh tăng để lại "Trước khi sinh ra ai là ta? Khi sinh ra rồi ta là ai?".
Quán tâm Pháp có 3 thiên luận về huyết mạch - ngộ tánh - phá tướng được itvtbadboy kết hợp bản gốc và lời dạy trong đường lối thực hành Tổ Sư thiền biên soạn lấy ra nội dung cơ bản cho mục đích thành tựu tầng đầu tiên nhất thiền không phân biệt ngộ tính sâu cạn.
Bồ Đề
Bồ Đề là từ chỉ trạng thái chứng quả 4 cấp Thánh Đạo bằng cách diệt trừ vô minh thông suốt được Tứ Diệu Đế và hành trì Pháp môn hỗ trợ tu tập trên con đường giác ngộ.
Ấn Độ
Ấn Độ cũng là nơi khởi nguồn của 4 tôn giáo lớn trên thế giới bao gồm Ấn Độ giáo Phật giáo Jaina giáo và Sikh giáo, Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất Đạt Đa Cồ Đàm thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội trừ tầng lớp trung lưu, ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ.
Phật
Phật nghĩa là bậc Giác Ngộ dùng để chỉ đến 1 vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã đạt đến sự tinh khiết và hoàn thiện trong đạo đức trí tuệ thông qua nỗ lực của bản thân trong việc thực hiện các Pháp ba la mật ở rất nhiều kiếp sống, tâm trí hoàn toàn không còn vô minh vốn là gốc rễ gây ra sinh tử.
Đạo
Đạo là con đường dẫn dắt con người đi đến mục tiêu hay lý tưởng nào đó dựa vào 1 nền tảng cơ bản là cái thiện cái đẹp tự nhiên trong sáng lành mạnh và chân chính để mưu cầu hạnh phúc bình an.
Thiền học
Thiền học là 1 môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộ và giải thoát sanh tử mong đạt đến Niết Bàn tịch tịnh.
Niết Bàn
Niết Bàn là trạng thái diệt tận được tham ái sân hận và si mê để đạt đến trạng thái bình lặng tuyệt đối, Ấn Độ giáo nhìn nhận Niết Bàn là sự trở về của linh hồn cá nhân vào với linh hồn vũ trụ của tiểu ngã vào với đại ngã.
Kinh Thập Ðịa
Kinh Thập Ðịa là 1 phần độc lập của đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh do Bồ Tát Kim Cương Tạng trình bày với Phật về các giai đoạn tu chứng, 1 bài luận quan trọng của thế thân về Thập Ðịa.
Bình đẳng tâm
Bình đẳng tâm nghĩa là bản chất tinh thần giống nhau nơi tâm của mọi chúng sanh, không phân biệt hay thiên vị, không thương người này mà lại ghét người kia.
Trung Đạo
Trung Đạo là con đường tránh xa 2 cực đoan hưởng thọ dục vọng và tu tập khổ hạnh, trung Đạo là kinh nghiệm rút ra từ bản thân của Đức Phật sau khi sống hưởng thụ trong hoàng cung và trải qua 6 năm tu khổ hạnh, nhờ con đường trung Đạo mà Đức Phật thành đạt giác ngộ giải thoát dưới cội cây Bồ Đề.
Bát Chánh Đạo
Bát Chánh Đạo gồm 8 Pháp thực hành chánh kiến - chánh tư duy - chánh ngữ - chánh nghiệp - chánh mạng - chánh tinh tấn - chánh niệm - chánh định, Bát Chánh Đạo là 1 bản tóm tắt ở thời kì ban đầu về con đường của các phương pháp thực hành trong Phật giáo để dẫn đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi tái sinh đầy đau khổ bằng việc đạt đại Niết Bàn.
Kim Cang
Kim Cang nói đến Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát là vị Bồ Tát truyền thống trong Phật giáo đại thừa, nổi tiếng với khả năng tịnh hóa tiêu trừ ác nghiệp giúp tâm trí an tĩnh tự tại.
Bồ Tát
Bồ Tát nghĩa giác hữu tình hoặc đại sĩ là những bậc trong Tam Thập Tam Thiên thế giới cứu giúp chúng sanh bằng hạnh Bồ Tát Maha Tát.
6 ba la mật
6 ba la mật theo Phật giáo đại thừa là 6 điều toàn hảo gồm bố thí - giới - nhẫn - tinh tấn - thiền định - trí huệ.
6 đường
6 đường gồm Trời người A Tu La địa ngục ngạ quỷ súc sanh.
Cõi Trời: khéo tu thiện nghiệp tạo phước cúng dường, sắc vô sắc thiền là cõi chư Thiên.
Cõi người: giữ gìn ngũ giới hoặc ít hoặc nhiều, sang hèn thọ yểu theo nghiệp cảm chiêu.
A Tu La: phước báu như Trời đức lại kém vơi, sân hận tật đố tranh đấu khắp nơi.
Địa ngục: không tin nhân quả độc ác hại nhau, chẳng kính Tam Bảo địa ngục khổ đau.
Ngạ quỷ: tham lam bỏn xẻn ích kỷ ghét ganh, thấy lợi giành tranh đói khổ hoành hành.
Súc sinh: ngu si biếng lười dối gạt móc bươi, làm thân súc vật đền trả cho người.
Vô Tận Đăng
Vô Tận Đăng nghĩa 1 cây đèn làm mồi cho những cây đèn khác mà không bao giờ hết, đem Pháp của 1 người dẫn dắt và truyền trao cho nhiều người mãi mà không hết.
Quán huyết mạch
huyết mạch | Sep 12, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Huyết mạch dùng để chỉ cho sự truyền thừa giáo Pháp, quán huyết mạch biểu thị ý nghĩa lưu thông liên tục không ngừng vì thế Pháp môn được truyền nối giữa Thầy và Trò còn gọi là huyết mạch tương thừa.
Ba cõi lăng xăng đều từ một tâm, Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm chẳng lập văn tự.
Lấy gì là tâm
Hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?
Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi, nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông, ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi, cho nên biết hỏi tôi tức là tâm của ông đó.
Từ lũy kiếp đến giờ, dẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông đều là Phật vốn có của ông, ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được, nếu lìa tâm này mà tìm Bồ Đề Niết Bàn thì thật là không tưởng.
Tánh chơn thật của mình không phải Pháp nhân Pháp quả đó là nghĩa của tâm, tự tâm là Niết Bàn, nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ Đề có thể được thì thật là không tưởng.
Phật ở chỗ nào
Hỏi: Phật và Bồ Đề ở chỗ nào?
Đáp: Ví như có người dang tay bắt hư không sao lại không được, vì hư không chỉ có tên chớ nào có hình tướng bắt đã chẳng được bỏ cũng chẳng được, trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy.
Phật là tự tâm làm ra tại sao phải lìa tâm mà tìm Phật, Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm, tâm tức là Phật Phật tức là tâm, ngoài tâm không Phật ngoài Phật không tâm, nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu?
Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do, nếu không tin hiểu như thế để tự dối gạt thật là vô ích.
Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật, nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.
Phật chẳng độ Phật, nếu đem tâm tìm Phật là chẳng biết Phật là chỉ tự tâm, những người đi tìm Phật hết thảy đều chẳng biết tự tâm là Phật, cũng chớ nên đem Phật lễ Phật đem tâm niệm Phật.
Phật chẳng tụng kinh chẳng giữ giới chẳng phạm giới, Phật không có giữ và phạm cũng chẳng tạo thiện tạo ác, nếu chẳng thấy tánh thì niệm Phật tụng kinh ăn chay giữ giới cũng không ích lợi gì.
Niệm Phật chẳng qua được nhân quả, tụng kinh chẳng qua được thông minh, giữ giới chẳng qua được sanh lên cõi Trời, bố thí chẳng qua được phước báo, tìm Phật quyết định không thể được.
Nếu tự mình không thấu suốt thì phải nên tìm tham học với thiện tri thức nào đã dứt khoát nguồn cội sanh tử, nếu chẳng thấy tánh thì không được gọi là thiện tri thức, nếu không như thế dẫu cho có giảng được hết cả kinh Phật cũng chẳng khỏi sanh tử luân hồi vẫn ở trong ba cõi chịu khổ mãi mãi.
Người nay bất quá giảng được năm ba bốn kinh luận rồi vội cho là mình thực hành pháp Phật đó là thuộc về hạng người mê, nếu chẳng biết tự tâm chỉ tụng theo suông mặt chữ của kinh đều là vô dụng.
Nếu muốn tìm Phật phải nên thấy tánh, tánh tức là Phật Phật tức là người tự tại rảnh rang vô sự, nếu chẳng thấy tánh suốt ngày chật vật rong ruổi ra ngoài mà tìm thì tìm làm sao được.
Nhắm mắt ra sao
Hỏi: Khi nhắm mắt rồi ra sao?
Đáp: Sanh tử việc lớn không được phép để luống trôi qua tự dối gạt vô ích, dẫu có của quí như non quyến thuộc như cát sông Hằng, mở mắt thấy đó phải biết các Pháp hữu vi đều như giấc mơ như huyễn hóa.
Nếu chẳng gấp tìm Thầy học Đạo luống uổng một kiếp trôi qua, tuy rằng tánh Phật ai cũng vốn tự có nhưng nếu chẳng nhờ Thầy chỉ giáo rốt không thể tỏ ngộ, những bật chẳng nhờ Thầy mà tỏ ngộ chỉ là hy hữu trong muôn một mà thôi, nếu tự mình được nhân duyên hợp ý Thánh thì không cần phải tham học với thiện tri thức, trường hợp này gọi là sanh ra đã biết còn hơn vậy.
Nếu chưa minh bạch được đen trắng mà kỳ vọng nói tuyên bày giáo Pháp của Phật chê Phật kỵ Pháp, những bọn như thế thuyết pháp như thế hết thảy đều là ma nói không phải Phật nói, tức là ma vương gạt gẫm tất cả chúng sanh cho vào cõi ma, người mê chịu cho chúng nó chỉ huy chẳng được giác ngộ đoạ vào biển sanh tử chỉ vì chẳng thấy tánh vọng xưng là Phật.
Có được thành Phật
Hỏi: Nếu chẳng thấy tánh có được thành Phật?
Đáp: Nếu có chút Pháp nào có thể được là Pháp hữu vi là Pháp nhân quả là Pháp thọ báo là Pháp luân hồi, không khỏi sanh tử biết chừng nào mà thành Phật.
Muốn thành Phật phải thấy tánh, nếu chẳng giác ngộ bổn tánh thì nói những nào nhân nào quả đều là Pháp ngoại đạo, nếu là Phật thì chẳng tập theo Pháp ngoại đạo.
Phật là người không nghiệp không nhân quả, nếu nói có chút Pháp có thể được đều là chê bai Phật đó, căn cứ nơi đâu mà được thành Phật dẫu cho chỉ trụ chấp 1 tâm 1 năng 1 giải 1 thấy cũng đều bị Phật chẳng thừa nhận.
Phật không giữ và phạm, tâm tánh vốn không cũng không phải các Pháp dơ sạch không tu không chứng không nhân không quả, Phật chẳng giữ giới chẳng tu thiện chẳng tạo ác chẳng tinh tiến chẳng giải đãi, Phật là người vô tác nếu có tâm đắm chấp để thấy Phật là bị không thừa nhận rồi, nếu chẳng thấy nghĩa này thì luôn luôn ở đâu cũng đều là mê muội bổn tâm, nếu chẳng thấy tánh mà luôn tưởng tượng ra làm cái rảnh rang vô tác đó là tội nhân lớn, là người si rơi vào ngoan không vô ký ngây ngây như người say chẳng phân được tốt xấu.
Có người cho rằng không nhân quả tha hồ mà tạo nghiệp ác vọng nói vốn không làm ác không tội, con người như thế sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián tối tăm mãi mãi, nếu là người trí không nên hiểu như thế.
Lễ Phật Bồ Tát
Hỏi: Tại sao không được lễ Phật, Bồ Tát?
Đáp: Thiên ma Ba Tuần hay A Tu La cũng hiện thần thông làm được tướng Bồ Tát và nhiều cách biến hóa đó là ngoại đạo chớ không phải Phật, Phật là tự tâm đừng lầm lễ lạy.
Chữ Phật là tiếng Ấn Độ theo xứ ta gọi là tánh giác, giác nghĩa là linh giác ứng cơ tiếp vật nhướng mày liếc mắt động tay máy chân đều là tánh linh giác của mình, tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là Đạo, Đạo tức là thiền.
Nội 1 chữ thiền phàm Thánh cũng khó lường được Đạo cả sâu mầu không thể dùng lời mà tỏ hết vậy kinh điển căn cứ nơi đâu mà có thể đến được, chỉ thấy bổn tánh dầu cho không biết một chữ cũng là thấy tánh tức là Thánh thể.
Đạo vốn viên thành chẳng phải tu chứng, Đạo không phải sắc thinh vi diệu khó thấy, chỉ như người uống nước lạnh ấm tự biết mà thôi không thể nói cho người khác nghe được, chỉ có Như Lai biết được ngoài ra người Trời các loại đều không hay biết.
Vì trí phàm phu không đến được nên mới chấp tướng chẳng rõ tự tâm vốn vắng lặng rỗng rang nên mới đọa ngoại đạo, nếu biết đều từ tâm sanh thì chẳng nên chấp, chấp là chẳng biết Đạo vốn không nói năng, nói năng là vọng.
Người tu đêm đến có nằm mơ thấy lâu đài cung điện voi ngựa hoặc cây cối rừng ao... chớ nên mống lòng tham đắm vì hết thảy cảnh ấy đều là chỗ để thác sanh, điều này phải hết sức chú ý.
Khi lâm chung chẳng nên chấp tướng thì chướng liền trừ, nếu tâm nghi phát khởi là bị ma nhiếp, Pháp thân bổn lai thanh tịnh không thọ lãnh 1 điều gì chỉ vì mê muội không hay biết nên vọng thọ báo mất tự do, nếu ngộ được bổn tâm thì chẳng đắm nhiễm.
Phàm phu thần thức mê muội chớ không phải trong ngoài sáng suốt như Thánh nhơn, nếu có chỗ nghi thì chớ nên làm, làm là bị trôi lăn theo sanh tử khi ăn năn đã muộn, nghèo cùng khốn khó đều từ vọng tưởng sanh, nếu ai tỏ được tâm này thì nên lần lượt khuyên bảo lẫn nhau chỉ làm mà không trụ không chấp là vào được tri kiến Như Lai.
Nếu chẳng thấy tánh chớ nên bắt chước chê bai những người lương thiện tự dối gạt vô ích, thiện ác rõ ràng nhân quả phân minh thiên đường địa ngục chỉ ở trước mắt, người ngu chẳng biết hiện đọa vào địa ngục tối tăm cũng không hay.
Vợ con dâm dục
Hỏi: Cư sĩ còn vợ con, dâm dục làm sao thành Phật được?
Đáp: Chỉ nói thấy tánh chẳng bàn đến dâm dục, miễn được thấy tánh thì dâm dục vốn tự rỗng lặng tự nhiên dứt trừ không còn tham đắm nữa, dẫu cho dư tập hãy còn cũng chẳng làm hại được.
Vì tự tánh vốn nó tự thanh tịnh, tuy ở trong sắc thân 5 uẩn tánh nó cũng vốn thanh tịnh không ô nhiễm, Pháp thân bổn lai không thọ không đói không khát không lạnh nóng không bệnh hoạn không ân ái không quyến thuộc không khổ vui tốt xấu không vắn dài mạnh yếu.
Vốn không 1 vật có thể được chỉ vì cố chấp cái thân này nên mới có các tướng đói khát lạnh nóng bệnh chướng... nếu chẳng chấp là được tự tại chuyển trở lại các Pháp đừng để các Pháp chuyển, cũng như Thánh nhơn thì ở đâu lại không yên.
Đồ tể thành Phật
Hỏi: Đồ tể làm nghiệp sát sanh làm sao thành Phật được?
Đáp: Chỉ nói thấy tánh chẳng nói tạo nghiệp, dẫu sao có tạo nghiệp thế nào nghiệp cũng không thể trói buộc được, nếu chẳng thấy tánh niệm Phật để khỏi nhân quả cũng không thể được, không luận là sát sanh.
Nếu được thấy tánh tâm sát liền trừ, nghiệp sau cũng không thể trói buộc được nên 27 vị tổ ở Tây Trúc chỉ truyền nhau tâm ấn chớ chẳng nói đến giữ giới tinh tiến khổ hạnh vào nước vào lửa leo lên gươm đao ăn 1 ngày 1 bữa ngồi hoài chẳng nằm.
Quán ngộ tánh
ngộ tánh | Sep 12, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Quán ngộ tánh vả chăng Đạo là lấy vắng lặng làm thể tu là lấy lìa tướng làm tông nên kinh nói lìa tất cả các tướng là danh hiệu chư Phật, thế mới biết có tướng mà không tướng không thể dùng mắt thấy chỉ có thể dùng trí biết.
Ai nghe pháp này mà sanh một niệm lòng tin phải biết người đó đã phát tâm đại thừa siêu 3 cõi, 3 cõi tức là tham sân si đổi tham sân si ra thành giới định huệ tức gọi là siêu 3 cõi.
Nhưng tánh của tham sân si cũng không thật chỉ tùy thuận chúng sanh mà nói vậy thôi, nếu ai có thể soi trở vào trong thì thấy rõ tánh của tham sân si tức là tánh Phật, ngoài tham sân si không có tánh Phật nào khác.
Nếu ai biết được 6 căn không thật 5 uẩn giả danh khắp thân tìm cầu hết thảy đều không có chỗ nhất định, phải biết người đó rõ được nghĩa Phật nói, kinh nói hang ổ của 5 uẩn là thiền viện, soi trở vào trong được tỏ ngộ là môn đại thừa há chẳng rõ chẳng chứa tất cả pháp gọi là thiền định, nếu rõ được câu này thì đi đứng nằm ngồi đều là thiền định.
Đại thiền định
Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật, lìa chấp thân chẳng tiếc gọi là đại bố thí, lìa các động tịnh gọi là đại toạ thiền, vì phàm phu 1 niệm chấp động tiểu thừa 1 niệm chấp định, nếu vượt khỏi cái tọa thiền của tiểu thừa và phàm phu thì gọi là đại tọa thiền, nếu nhận được như thế thì tất cả các tướng chẳng tìm cũng tự rõ tất cả các bệnh chẳng trị cũng tự khỏi đó là nhờ sức đại thiền định.
Phàm ai đem tâm mà cầu Pháp đều là mê, chẳng đem tâm cầu Pháp là ngộ, chẳng đắm chấp văn tự gọi là giải thoát, chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ Pháp, lìa khỏi sanh tử gọi là xuất gia, chẳng thọ báo sau này gọi là đắc Đạo, chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết Bàn, chẳng kẹt trong vô minh gọi là đại trí huệ, đến chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn, đến chỗ không có tướng tâm gọi là qua bờ bên kia.
Định vô thiền
Khi mê thì có bờ bên đây, khi ngộ rồi thì bờ bên đây cũng không có vì phàm phu 1 niệm chấp bên đây nếu tỏ ngộ được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên đây cũng chẳng trụ bên kia nên lìa được cả đây kia vậy, nếu thấy bờ bên kia chẳng khác hơn bờ bên đây cái tâm của người ấy đã được cái định vô thiền.
Phiền não gọi là chúng sanh, tỏ ngộ gọi là Bồ Ðề cũng chẳng 1 chẳng khác chỉ khác nhau ở mê ngộ, khi mê có thế gian để ra khỏi khi ngộ không có thế gian để ra, trong Pháp bình đẳng chẳng thấy phàm phu khác với Thánh nhơn.
Bình đẳng tâm
Nếu thấy sanh khác với tử động khác với tĩnh đều gọi là chẳng bình đẳng, chẳng thấy phiền não khác với Niết Bàn thế mới gọi là bình đẳng, vì phiền não và Niết Bàn cùng 1 tánh không cho nên người nhị thừa vọng dứt trừ phiền não vọng nhập Niết Bàn tự tạo Niết Bàn để trói buộc, còn Bồ Tát biết được tánh phiền não vốn không nên chẳng lìa không thường ở Niết Bàn.
Niết Bàn nghĩa là khơi mà chẳng sanh tịch mà chẳng chết vượt khỏi sanh tử là Bát Niết Bàn, tâm không có đi và đến là nhập Niết Bàn, thế mới biết Niết Bàn tức là tâm không.
Chúng sanh độ Phật, Phật độ chúng sanh thế gọi là bình đẳng, chúng sanh độ Phật nghĩa là nhờ phiền não sanh tỏ ngộ, Phật độ chúng sanh nghĩa là tỏ ngộ rồi diệt phiền não, thế mới biết không phiền não không lấy đâu sanh tỏ ngộ không phải thức tỉnh không lấy đâu diệt phiền não.
Khi mê là chúng sanh độ Phật khi ngộ là Phật độ chúng sanh vì Phật chẳng tự thành đều do chúng sanh độ cả, chư Phật lấy vô minh làm Cha tham ái làm Mẹ, vô minh và tham ái đều là biệt danh của chúng sanh, chúng sanh và vô minh cũng như tay trái và tay phải chớ không phải hai người.
Tâm trung Đạo
Nếu biết được tâm chỉ là giả danh tạm gọi chớ không có tướng thì liền biết cái tâm của tự mình cũng không phải có không phải không, vì phàm phu 1 niệm sanh tâm gọi là có tiểu thừa 1 niệm diệt tâm gọi là không, còn Bồ Tát và Phật chưa từng sanh tâm cũng chưa từng diệt tâm cho nên gọi là không phải có không phải không, chỗ này cũng gọi là trung Đạo.
Thế mới biết chấp tâm học Pháp thì cả tâm lẫn Pháp đều mê, đừng chấp tâm mà học Pháp thì cả tâm và Pháp đều ngộ, phàm mê nghĩa là mê ở trong ngộ ngộ là ngộ ở trong mê, con người chánh kiến biết được tâm vốn rỗng không liền siêu mê ngộ như thế mới gọi là thấy biết đúng.
Cho nên Thánh nhơn chẳng đem tâm mà cầu Pháp cũng chẳng đem Pháp mà cầu tâm cũng chẳng đem tâm mà cầu tâm đem Pháp cầu Pháp, tâm chẳng sanh Pháp Pháp chẳng sanh tâm tâm Pháp thường vắng lặng nên thường ở trong định.
Cái thấy thân riêng
Khi mê có Phật có Pháp khi ngộ không Phật không Pháp vì ngộ tức là Phật là Pháp, phải chăng tu nghĩa là diệt cái thấy có thân riêng thì Đạo thành cũng như hột giống nứt vỏ thì cây nẩy mầm.
Cái thân sanh tử nghiệp báo luôn luôn vô thường là Pháp không nhất định chỉ tùy niệm mà tu, cũng không nên chán sanh tử hay thích sanh tử, chỉ làm sao trong tâm đừng vọng tưởng thì khi sống nhập được Hữu Dư Niết Bàn khi chết vào được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Khi 1 niệm tâm khởi thì liền có 2 nghiệp thiện ác có thiên đàng địa ngục, nếu 1 niệm tâm chẳng khởi thì 2 nghiệp liền dứt thiên đường địa ngục cũng không.
Phật ở trong tâm như hương trong cây, giác mục hết rồi thì lõi hương tự hiện, phiền não hết rồi thì Phật tâm tự hiện cho nên biết ngoài cây không hương ngoài tâm không Phật, nếu ngoài cây có hương tức là hương chỗ khác ngoài tâm có Phật tức là Phật từ ngoài là không phải Phật của mình.
Quán phá tướng
phá tướng | Sep 12, 2024 | Phật Pháp |
Vietnam | wikibadboy | miễn phí |
Quán phá tướng là phương pháp Tổ Bồ Đề Đạt Ma thuyết ra chỉ dạy cho chúng sinh có duyên tự thân đột phá thiền định, còn lại là trí tuệ từ Bát Chánh Đạo thông qua 1 chữ chánh thay đổi tri kiến hình tướng bề ngoài chuyển hết thành Chánh Kiến vốn có của tâm.
Phải tu cách nào
Hỏi: Nếu muốn cầu Đạo phải tu cách nào cho chóng tắt nhất?
Đáp: Chỉ có Pháp quán tâm nhiếp hết các Pháp là chóng tắt nhất.
Vì tâm là nguồn cội của vạn Pháp, hết thảy Pháp đều từ tâm sanh, nếu tỏ được tâm thì vạn Pháp đều đủ, cũng như cây to cành lá hoa quả sum suê đều từ gốc cây, khi trồng cây phải chú ý săn sóc ở gốc thì cây mới được sanh sôi, đốn cây cũng cứ đốn ở gốc thì toàn thân cây đều chết, nếu tỏ tâm mà tu thì dụng lực ít mà thành công dễ chẳng tỏ tâm mà tu phí công vô ích, nên biết tất cả thiện ác đều từ tâm lìa tâm mà tìm Đạo là việc luống công.
Bậc Đại Bồ Tát khi thâm nhập vào Pháp đại trí huệ biết được tứ đại vốn rỗng không vô ngã thấy được tự tâm khởi dụng 2 mặt khác nhau, 1 là tâm nhiễm 2 là tâm tịnh.
2 mặt tâm Pháp này tự nhiên vốn đầy đủ, tuy nhờ duyên hợp nhưng 2 tướng vẫn làm nhân đối đãi cho nhau, tâm tịnh thích làm nhân lành tâm nhiễm thường ưa nghiệp ác, nếu chẳng thọ nhiễm thì gọi là Thánh thoát ly các khổ chứng cái thật yên vui, nếu đọa vào tâm nhiễm thì tạo nhiệp chịu trói buộc gọi là phàm trôi lăn trong 3 cõi chịu muôn điều thống khổ.
Vì tâm nhiễm trái chướng với thể chơn như nên kinh Thập Ðịa nói trong thân chúng sanh có tánh Phật Kim Cang tròn sáng như mặt trời rộng lớn không bờ mé, vì bị mây 5 ấm che khuất như đèn bị chậu úp sáng không hiện được.
Lại trong kinh Niết Bàn có nói hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật vì bị vô minh che khuất nên chẳng được giải thoát, tánh Phật tức là tánh giác đó, chỉ tự giác và làm cho kẻ khác giác ngộ, giác ngộ rõ suốt thì gọi là giải thoát.
Nên biết tất cả việc thiện đều lấy giác làm gốc nhờ giác mới có thể hiển hiện các cội công đức, đức quả Niết Bàn cũng nhân đây mà thành tựu, quán tâm như thế gọi là liễu.
Lấy đâu làm gốc
Hỏi: Cái tâm vô minh lấy đâu làm gốc?
Đáp: Cái tâm vô minh tuy có 84.000 phiền não tình dục và hà sa các điều ác đều nhân 3 độc làm gốc, 3 độc là tham sân si đó.
Cái tâm 3 độc này tự nó đủ tất cả khả năng làm ác cũng như cội cây to chỉ có 1 nhưng có biết bao cành lá, căn cội của 3 độc trong mỗi 1 cái rễ sanh ra các nghiệp ác vô lượng vô biên không thể tỷ dụ, tâm 3 độc như thế từ trong bản thể ứng hiện ra 6 căn cũng gọi là 6 kẻ giặc tức là 6 thức đó.
Do 6 thức này ra vào các căn tham đắm trần cảnh tạo thành nghiệp ác trái chướng với nhơn thế nên gọi là 6 kẻ giặc, tất cả chúng sanh đều bị 3 độc và 6 kẻ giặc này làm mê loạn thân tâm chìm đắm trong sanh tử luân hồi trong 6 nẻo chịu các điều đau khổ.
Cũng như sông rộng mênh mông bắt nguồn từ khe suối nhỏ chảy mãi không ngừng lần ra đến sóng cuộn ba đào mịt mờ muôn dặm, nếu có người lấp được tận nguồn thì dòng suối đều dứt, người cầu giải thoát nếu có thể chuyển 3 độc làm 3 tụ tịnh giới chuyển 6 kẻ giặc làm 6 ba la mật tự nhiên lìa dứt tất cả nghiệp khổ.
Thoát khỏi biển khổ
Hỏi: Nếu chỉ quán tâm làm sao thoát khỏi biển khổ vô cùng?
Đáp: 3 cõi nghiệp báo chỉ từ tâm sanh, nếu được vô tâm tuy ở trong 3 cõi nhưng liền thoát ly 3 cõi.
3 cõi tức là 3 độc đó, tham là cõi Dục, sân là cõi Sắc, si là cõi Vô Sắc nên gọi là 3 cõi, từ 3 độc này tạo nghiệp nhẹ nặng thọ báo chẳng đồng chia ra 6 nẻo nên gọi là 6 thú, chúng sanh chẳng rõ nhân chánh quên tâm tu nghiệp thiện vẫn chưa khỏi 3 cõi sanh về 3 nẻo nhẹ.
Tu 3 nẻo nhẹ
Hỏi: Sao gọi là 3 nẻo nhẹ?
Đáp: Vì là mê lầm tu 10 điều thiện, vọng cầu khoái lạc vọng khởi ghét yêu mê chấp theo hữu vi nên sinh về 3 cõi nhẹ Trời người A Tu La.
Vọng cầu khoái lạc chưa khỏi cõi tham sanh về đường Trời, mê giữ 5 giới vọng khởi ghét yêu chưa khỏi cõi sân nên sanh về đường người, mê chấp theo hữu vi tin tà cầu phước chưa khỏi cõi si nên sanh về nẻo A Tu La.
Đọa 3 đường nặng
Hỏi: Sao gọi là 3 đường nặng?
Đáp: Nghĩa là từ tâm 3 độc chỉ tạo nghiệp ác bị đọa vào 3 đường nặng.
Nếu nghiệp tham nặng thì đọa vào đường ngạ quỷ, nghiệp sân nặng thì đọa vào đường địa ngục, nghiệp si nặng thì đọa vào đường súc sanh, 3 đường nặng này thông đồng với 3 đường nhẹ cộng thành 6 đường, nên biết tất cả nghiệp khổ đều từ tâm sanh nếu có thể nhiếp tâm lìa tất cả ác thì cái khổ trong 3 cõi 6 đường tự nhiên tiêu diệt lìa khổ là được giải thoát.
3 vô lượng kiếp
Hỏi: Quán tâm chế ngự 3 độc thì gọi giải thoát là tại làm sao?
Đáp: Lời Phật nói thật không ngoa, 3 vô lượng kiếp tức là 3 độc đó.
Trong cái tâm 3 độc này có vô số niệm ác, trong mỗi niệm ác đều là 1 kiếp cho nên nói 3 vô số kiếp, tánh chơn như đã bị 3 độc che khuất, nếu chẳng siêu cái tâm có 3 vô lượng ác độc ấy thì sao gọi là giải thoát, nay nếu có thể chuyển cái tâm 3 độc này làm 3 giải thoát thế gọi là đã vượt qua được 3 vô lượng vô số kiếp.
Chúng sanh đời sau ngu si căn độn chẳng rõ cách nói bí mật của Như Lai bèn cho rằng việc thành Phật không thể tin được, như thế há chẳng là làm cho người tu nghi lầm thối chuyển Đạo Bồ Đề đó sao.
3 tụ tịnh giới
Hỏi: Người tu chỉ quán tâm chẳng tu giới hạnh làm sao thành Phật?
Đáp: Vì hay dứt ác tu thiện thì vạn hạnh thành tựu mình người đều lợi giúp khắp quần sanh nên gọi là giải thoát, thế mới biết giới hạnh để tu ấy chẳng lìa tự tâm.
3 tụ tịnh giới tức là chế ngự cái tâm 3 độc đó, chế ngự 3 độc thành vô lượng Pháp thiện tụ, chữ tụ gom lại vô lượng Pháp thiện đều tụ nơi tâm nên gọi là 3 tụ tịnh giới, còn nói 6 ba la mật nghĩa là tịnh 6 căn vì 6 căn thanh tịnh chẳng nhiễm 6 trần tức là qua được sông phiền não đến bến Bồ Ðề.
Phật nói điều gì đều là chân thật, bậc Đại Bồ Tát trong nhân tu hành của quá khứ là đối 3 độc phát 3 thệ nguyện giữ tất cả tịnh giới, đối với tham thì nguyện dứt các điều ác thường tu các điều thiện, đối với sân thì nguyện độ tất cả chúng sanh nên thường tu huệ, đối với si nhờ hành trì 3 Pháp tịnh giới định huệ ấy nên có thể siêu 3 độc mà thành Phật.
6 độ dung thông
Hỏi: 6 ba la mật cũng gọi là 6 độ vậy chỗ dung thông phải như thế nào?
Đáp: Độ nghĩa là chuyên chở, 6 độ ví dụ cũng như đò có thể đưa chúng sanh qua bờ sông bên kia nên gọi là 6 độ.
Muốn tu 6 độ phải tịnh 6 căn, trước hàng phục 6 kẻ giặc, hễ xả được giặc mắt đừng đắm theo sắc thì gọi là bố thí, ngăn được giặc tai đừng đắm theo âm thinh thì gọi là giữ giới, phục được giặc mũi không đắm theo mùi thì gọi là nhẫn nhục, chế được giặc miệng không tham theo vị không đắm theo giọng không buông lung theo nói năng tạp loạn thì gọi là tinh tiến, hàng được giặc thân chẳng đắm theo xúc dục rỗng rang chẳng động gọi là thiền định, điều phục được giặc ý chẳng thuận với vô thường thường tu trí huệ gọi là trí huệ.
Thanh tịnh Pháp nhũ
Hỏi: Kinh nói đức Thích Ca khi còn làm Bồ Tát đã từng uống 3 đấu 6 thăng sữa mới thành Phật?
Đáp: Đúng thế đúng thế, phải trước uống sữa rồi sau mới thành Phật, nhưng phải biết sữa có 2 thứ là sữa của thế gian và thanh tịnh Pháp nhũ.
Thứ sữa Phật uống đây không phải sữa trâu sữa bò sữa dê của thế gian đâu mà là thanh tịnh Pháp nhũ đó, 3 đấu tức là 3 tụ tịnh giới 6 thăng là 6 độ, thành Phật phải nhờ uống thứ sữa Pháp thanh tịnh như thế mới chứng được quả, nhưng phải biết đây là cách nói kín nếu hiểu Như Lai uống các thứ sữa vật chất thế gian thì lầm lắm.
Chân Như vốn tự là Pháp thân vô lậu bất hoại lìa hẳn tất cả các cái khổ thế gian há lại phải nhờ vật chất bất tịnh thế gian để khỏi đói khát, trong kinh có nói thứ bò này chẳng ở cao nguyên chẳng ở đất thấp chẳng ăn lúa cám chẳng cùng loại bò bô nhập bầy màu lông vàng ánh tía, chữ bò ở đây để ám chỉ cho Phật Tỳ Lô Giá Na.
Vì lòng từ bi rộng lớn thương xót tất cả chúng sanh nên từ trong Pháp thể thanh tịnh xuất hiện ra thứ sữa Pháp 3 tụ tịnh giới và 6 độ vi diệu như thế để nuôi dưỡng cho tất cả những ai cầu giải thoát, cái nghĩa bò và sữa thanh tịnh như thế không những Như Lai uống vào là được thành Đạo mà dẫu cho ai uống vào cũng đều được đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Vô lượng phương tiện
Hỏi: Phật dạy chúng sanh cất chùa đúc vẽ hình tượng thắp hương đèn rải hoa, ngày đêm 6 thời quanh tháp hành Đạo ăn chay lễ bái làm hết thảy công đức ấy đều được thành Đạo, nếu chỉ quán tâm nhiếp hết các hạnh như thế té ra bao nhiêu chuyện kinh nói đều thành hư luống sao?
Đáp: Phật có nói điều gì đều là vô lượng phương tiện vì tất cả chúng sanh ngu tối, căn cơ thấp kém chẳng tỏ nghĩa lý sâu mầu nên mới mượn việc thế gian hữu vi để mà thí dụ, nếu chẳng lo tu hạnh ở trong chỉ chạy ra ngoài mà cầu hy vọng được phước thì thật vô lý.
Nói chùa cũng như nói nơi thanh tịnh, nếu dứt trừ 3 độc thường tịnh 6 căn thân tâm rỗng lặng trong ngoài thanh tịnh đó là nghĩa cất chùa.
Đúc vẽ hình tượng là nói tất cả chúng sanh mong cầu Đạo quả các hạnh giác để tu là phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai chớ đâu nói chuyện hữu vi vật chất, cho nên người cầu giải thoát phải lấy thân làm lò dung Pháp làm lửa, dùng trí huệ làm thợ khéo 3 tụ tịnh giới 6 độ là khuôn ung đúc chơn như tánh Phật trong thân cho vào khuông giới luật.
Còn nghĩa thắp hương cũng vậy, là thứ hương chánh Pháp vô vi xông lên để tẩy sạch các uế nghiệp ác vô minh hết thảy đều tiêu diệt, 1 là hương giới nghĩa là ý nói hay dứt các ác hay tu các điều thiện, 2 là hương định nghĩa là tin sâu đại thừa tâm không thối chuyển, 3 là hương huệ nghĩa là thường quán sát trở vào trong tự thân tâm, 4 là hương giải thoát nghĩa là dứt hết cả vô minh trói buộc, 5 là hương giải thoát tri kiến nghĩa là xét xoi thường tỏ thông suốt không ngại.
5 thứ hương như thế là hương tối thượng thế gian không sánh được, Phật ở thế gian bảo các đồ đệ dùng lửa trí huệ đốt thứ hương vô giá này để cúng dường 10 phương chư Phật, chúng sanh ngày nay chẳng hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai chỉ dùng lửa ngoài mà thắp các hương vật chất thế gian để mong cầu phước báo làm kết quả.
Nghĩa rãi hoa cũng vậy, là nói công đức đem chánh Pháp mà giảng dạy lợi ích chúng sanh thấm nhuần khắp tánh chơn như bố thí trang nghiêm, thứ hoa công đức này Phật thường khen ngợi cứu cánh hằng còn không bao giờ héo tàn, nếu ai rải hoa như thế sẽ được phước báo vô lượng nếu nói Phật dạy chúng sanh cắt xén bông hoa tổn thương thảo mộc cho được hoa để rải thì thật là vô lý, vì người giữ giới thanh tịnh thì tất cả sum la vạn tượng trong Trời Đất cũng không xúc phạm, khi lầm phạm còn có ăn năn huống chi là dạy cố phá tịnh giới tổn thương vạn vật để cầu phước báo, muốn lợi lại thành hại há có như thế sao.
Nói luôn luôn đốt đèn sáng là ý nói cái tâm chánh giác tỏ suốt ví cũng như đèn sáng, cho nên ai muốn cầu giải thoát phải lấy thân làm đài tâm là tim các giới hạnh làm dầu trí huệ tỏ suốt làm lửa, thường thắp đèn chơn chánh giác chiếu phá tất cả vô minh ngu tối, hay dùng pháp này lần lượt khai thị lẫn nhau tức là một ngọn đèn mồi ra trăm ngàn ngọn cứ như thế mãi mãi vô cùng nên gọi là Vô Tận Đăng.
Chúng sanh ngu si chẳng rõ lối nói phương tiện của Như Lai luống làm theo sự đắm chấp việc hữu vi, bèn dùng các thứ đèn dầu thế gian đốt lên luống soi nhà trống rồi bảo làm đúng theo kinh há chẳng lầm lắm sao, vì Phật phóng 1 đạo hào quang trắng ở giữa 2 chân mày có thể chiếu suốt 18 ngàn cõi nước phương Đông há đợi nhờ đèn dầu thế gian leo nheo như thế để làm lợi ích.
Lại nữa 6 thời hành Đạo nghĩa là nói nơi 6 căn luôn luôn thực hành Phật Đạo tu các hạnh giác điều phục 6 căn mãi mãi không hở gọi là 6 thời, quanh tháp hành Đạo chữ tháp nơi đây làm ám chỉ cho thân tâm nghĩa là thường sanh giác huệ tuần sát thân tâm luôn luôn chẳng hở, các bậc Thánh đã qua đều nhờ thực hành cách ấy mà được Niết Bàn, người đời nay chẳng rõ lý này chỉ chấp trở ra mà tìm đem cái thân chướng ngại đi quanh tháp thế gian ngày đêm lũ lượt luống uổng nhọc công, đối với chơn tánh không chút lợi ích.
Còn nói ăn chay phải càng thêm để ý, nếu chẳng rõ lý này thì càng nhọc công vô ích, chữ chay là tề bình thân tâm chẳng để tán loạn, chữ ăn nơi đây cũng như nghĩa chữ giữ nghĩa là giữ các giới hạnh đúng Pháp tu hành, ở ngoài phải ngăn ngừa 6 tình ở trong phải chế ngự 3 độc siêng giác sát tịnh thân tâm, biết rõ nghĩa này mới gọi là ăn chay.
1. Ăn là vui với Pháp. |
Nghĩa là giữ y chánh Pháp hoan hỷ vâng làm. |
|
2. Ăn là vui với thiền định. |
Nghĩa là trong ngoài lặng suốt thân tâm vui đẹp. |
|
3. Ăn bằng suy nghĩ. |
Nghĩa là thường nghĩ chư Phật lòng miệng như nhau. |
|
4. Ăn bằng nguyện. |
Nghĩa là đi đứng nằm ngồi thường cầu nguyện lành. |
|
5. Ăn bằng giải thoát. |
Nghĩa là tâm thường thanh tịnh chẳng nhiễm tục trần. |
Lễ lạy theo phép thì ở trong phải tỏ thông lý thể ở ngoài thì tùy sự quyền thông, lý có khi phải hiện có khi phải ẩn, biết được nghĩa như thế mới gọi là y theo Pháp, vả chăng lễ nghĩa là kỉnh lạy nghĩa là phục, nghĩa là cung kỉnh chơn tánh hàng phục vô minh đó là lễ bái, nếu có thể dứt trừ lòng ác thiện niệm hằng giữ tuy chẳng hiện tướng nhưng đó mới thật là lễ lạy.
Tướng là Pháp tướng, Thế Tôn muốn làm cho người đời tỏ lòng khiêm tốn cũng dạy lễ lạy, nên ở trong khuất phục ngoài hiện khiêm cung, nêu cái bên ngoài để rõ bên trong tánh tướng như nhau, nếu không căn cứ trên lý pháp chỉ chấp tướng bề ngoài mà cầu, trong thì mở cửa 3 độc thường làm nghiệp ác ngoài làm ra tướng ghê gớm trá hiện oai nghi, chẳng khỏi luân hồi há thành công đức.
Tắm gội chúng tăng
Hỏi: Như kinh Ôn Thất nói tắm gội chúng tăng phước đức vô lượng đó rõ ràng dựa vào sự Pháp mới thành công đức, nếu là quán tâm có thể tương ứng được sao?
Đáp: Nói tắm gội chúng tăng cũng chỉ là 1 thứ ẩn ngữ chớ phải đâu bảo làm theo sự tướng thế gian, đức Thế Tôn thường vì các đệ tử mà giảng kinh Ôn Thất để cho thọ trì phép tắm gội nên mượn việc thế gian để ví dụ.
Mật nói công đức của cúng dường sau đây: 1 là nước trong, 2 là nhúm lửa, 3 là xà phòng, 4 là bàn chải, 5 là phấn bột, 6 là dầu ướp, 7 là áo lót.
Dùng 7 việc này để ví dụ cho 7 Pháp, tất cả chúng sanh theo 7 Pháp tắm gội trang nghiêm này thì có thể trừ được tâm độc vô minh dơ bẩn.
1. Dùng tịnh giới gội rửa mê lầm cũng như dùng nước trong gội rửa bụi bặm. |
2. Dùng trí huệ quán sát trong ngoài sáng suốt cũng như nhúm lửa nấu nước trong. |
|
3. Lừa lọc các điều ác cũng như xà phòng rửa sạch dơ bẩn. |
4. Chơn thật dứt trừ vọng tưởng cũng như bàn chải hay làm sạch miệng hôi. |
|
5. Chánh tín quyết định không nghi cũng như phấn bột dùng để xoa trong ngoài thân có thể ngăn ngừa các chứng phong ngoại cảm. |
6. Nhu hoà nhẫn nhục cũng như dầu ướp là thông nhuộm mặt da. |
|
7. Biết hổ thẹn ăn năn các nghiệp ác cũng như áo lót mình để che khuất bớt các chỗ bất tiện trong cơ thể. |
Hạng tỳ kheo lúc đó thông minh lanh lợi đều ngộ ý nhanh theo chỗ nói mà tu hành công đức thành tựu đều chứng quả Thánh, chúng sanh đời nay không rõ tự sự đem nước thế gian để tắm rửa cái thân tứ đại mà tự cho làm theo kinh, như thế há chẳng lầm lắm sao.
Vả lại tánh Phật chơn như đâu phải thứ có hình, phiền não bợn nhơ bổn lai không tướng há có thể đem nước vật chất để gội rửa cái thân vô vi được sao, trên sự chẳng tương ứng làm sao ngộ được Đạo.
Chí tâm niệm Phật
Hỏi: Kinh nói chỉ chí tâm niệm Phật tất được vãng sanh về cõi Cực Lạc, chỉ 1 môn này là được thành Phật đâu cần phải quán tâm để cầu giải thoát?
Đáp: Niệm Phật nghĩa là phải niệm chánh, nghĩa rốt ráo mới là nghĩa chánh chẳng rốt ráo là tà, nếu niệm chánh tất được vãng sanh niệm tà làm sao đến được.
Phật là giác nghĩa là giác sát thân đừng để khởi ác, niệm là nhớ nghĩa là giữ giới hạnh đừng vọng tinh tiến, cần rõ nghĩa như thế mới gọi là niệm, nên biết niệm ở nơi tâm chớ chẳng phải ở miệng, mượn ngôn ngữ để cầu ý được ý phải quên lời.
Đã nói niệm danh hiệu Phật cũng phải biết cái Đạo niệm Phật, nếu tâm không thật miệng niệm danh hiệu suông 3 độc lẫy lừng chấp mình chấp người cả bụng, dùng cái tâm vô minh vọng cầu thấy Phật luống uổng tốn công.
Ðến như tụng với niệm cũng khác nhau, ở miệng gọi là tụng ở tâm gọi là niệm, nên biết niệm từ tâm khởi gọi là môn giác hạnh, còn tụng ở miệng là tướng âm thanh, chấp tướng cầu lý thì thật là không phải.
Phải biết các Thánh xưa tu hành đều không phải nói bên ngoài mà luôn luôn phải lấy tâm làm chủ, vì tâm là nguồn cội vạn Pháp tâm là chủ của muôn đức, vắng lặng thường vui đều bởi ngừng vọng.
3 cõi luân hồi cũng từ tâm khởi, tâm là cửa của cuộc đời tâm là bờ giải thoát, biết được cửa tâm rồi lo gì khó thành, người nay thấy biết nông nổi chỉ biết sự tướng làm công, hao phí của cải tổn thương vạn loại luống công xây đắp gom nhóm vật liệu vẽ vời rằn ri đem hết tâm lực tốn mình mê người chưa biết tỉnh ngộ có đâu sợ khó.
Hễ thấy việc hữu vi thì nôn nao mê đắm còn nói đến vô tướng thì trơ trơ như mê, chỉ tham kết quả nhỏ nhen hiện tại chớ biết đâu cái khổ biển cả sau này, tu học như thế luống công nhọc sức trái chánh theo tà vọng nói được phước.
Nếu chỉ có thể nhiếp tâm soi trở vào trong giác sát ở ngoài cho tỏ, dứt trừ 3 độc đóng hết 6 cửa giặc đừng cho nhiễu loạn tự nhiên vô lượng công đức bao thứ trang nghiêm, vô số Pháp môn đều được thành tựu siêu phàm chứng Thánh tận mặt sát một bên, ngộ trong giây lát đâu đến nỗi khó khăn.