Đường lối thực hành Tổ Sư thiền - Quán tâm Pháp

From Thương mại - Thuong mai
Revision as of 09:52, 19 September 2024 by Wikibadboy (talk | contribs)

Đường lối thực hành Tổ Sư thiền

Sep 18, 2024 khái niệm
Vietnam miễn phí

duong loi thuc hanh to su thien

56 Nguyễn Hữu Huân
Giờ làm 08:00 - 15:30

Đường lối thực hành tham Tổ Sư thiền hòa thượng Thích Duy Lực, Tổ Sư thiền này là do đường lối chính thức của Tổ Sư truyền xuống gọi là tham thiền.

Tham thiền không phải là ngồi thiền, ngồi thiền cũng không phải là tham thiền, nhiều người lầm tưởng rằng ngồi thiền tức tham thiền kỳ thực tham thiền không cần ngồi cũng được, như Tổ dạy "phải khi lao động mà tập tham được mới tốt, nếu chỉ thích ngồi yên 1 chỗ vắng lặng mà tập tham thì khó hy vọng kiến tánh".

Lục Tổ nói "Đạo do tâm ngộ bất tại tọa", phẩm tọa thiền trong Pháp Bảo Đàn Kinh nói đến tọa thiền là "tâm tọa chớ không phải là thân tọa" nghĩa là ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, trông thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền.

Tham thiền

Hỏi: Thế nào gọi là tham thiền?
Đáp: Chữ tham tức là nghi, nghi tức là không hiểu, 1 việc gì đã hiểu rồi thì hết nghi tức là không có tham cho nên tham thiền rất chú trọng cái nghi gọi là nghi tình, muốn khởi lên cái nghi tình phải nhờ câu thoại đầu gọi là tham thoại đầu.

Thoại đầu

Hỏi: Thế nào là thoại đầu?
Đáp: Theo ngài Hư Vân giải thích rằng khi muốn nói 1 câu thoại phải khởi niệm thì mới nói được, lúc chưa khởi niệm muốn nói gọi là thoại đầu.

Nếu đã khởi niệm muốn nói mặc dầu chưa nói ra cũng đã là thoại vĩ rồi, hiện nay bắt đầu tham thiền thì chưa đến thoại đầu nhưng cũng không phải ở thoại vĩ mà là từ thoại vĩ tiến đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường 1 ngày kia sẽ tiến tới thoại đầu lúc ấy câu thoại tự mất, nếu còn câu thoại thì chưa đến thoại đầu.

Ngài Hư Vân có thí dụ rằng "thoại đầu là cây gậy nghi tình là đi, như người cụt chân muốn đi phải nhờ cây gậy, cũng như muốn khởi nghi tình phải nhờ câu thoại đầu vậy".

Nói tham thoại đầu thì nhiều lắm, muôn muôn ngàn ngàn kể không hết, bây giờ chỉ đề ra 5 câu thoại đầu để cho người tham thiền tự mình lựa chọn 1 câu, câu nào tự mình cảm thấy khó hiểu hiểu không nổi thì câu đó thích hợp cho mình tham, chỉ được lựa 1 câu không cho lựa 2 câu và sau khi quyết định câu nào rồi thì không cho đổi qua đổi lại, thẳng tới mà tham đến kiến tánh mới thôi.

1. Khi chưa có Trời Đất ta là cái gì?

2. Muôn Pháp về 1, 1 về chỗ nào?

3. Trước khi Cha Mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?

4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu?

5. Chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật là cái gì?

Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi thì phải có đáp cũng như câu khi chưa có Trời Đất ta là cái gì, hỏi thầm trong bụng cảm thấy không hiểu thì đáp không ra, đáp không ra thì càng thấy thắc mắc đó gọi là nghi tình.

Câu hỏi thứ nhất đáp không ra thì tiếp tục hỏi câu ấy lại, đáp không ra thì tiếp tục hỏi lần thứ 3, cứ tiếp tục hỏi mãi ngày đêm không ngừng bất cứ đi đứng nằm ngồi đang làm công việc tay chân hay bằng trí óc... đều phải tiếp tục hỏi tới hoài không giây phút gián đoạn.

Người sơ tham thì hay quên cũng như 1 ngày 24 tiếng đồng hồ gián đoạn 23 tiếng, tập tham dần thì sự gián đoạn giảm bớt còn 22 tiếng 21 tiếng 20 tiếng dần dần đến công phu miên mật tức là ngày đêm 24 giờ không giây phút gián đoạn.

Khi công phu được thành khối cũng gọi là đến thoại đầu còn gọi là đến đầu sào trăm thước, từ đầu sào trăm thước tiến thêm 1 bước nữa là kiến tánh đạt đến chỗ tự do tự tại được giải thoát vĩnh viễn tất cả khổ.

Người tham Tổ Sư thiền phải chú ý những điều sau đây: 1 là phá ngã chấp, 2 là phân biệt hồ nghi và chánh nghi, 3 là chẳng cho khởi biệt niệm, 4 là nhân quả nghi ngộ, 5 là chẳng phân biệt tư cách, 6 là thâm tin tự tâm, 7 là phải ngộ tự tánh, 8 là không lọt vô ký, 9 là hành khởi giải tuyệt, 10 chú trọng thực hành.

Theo Phật Pháp bất cứ tiểu thừa trung thừa đại thừa cho đến tối thượng thừa chẳng có thừa nào là không phá ngã chấp cả, nếu không phá ngã chấp thì không được giải thoát cái khổ sanh tử, không được ra khỏi sanh tử luân hồi.

Ngã chấp

Hỏi: Vậy tham thiền phải phá ngã chấp bằng cách nào?
Đáp: Bằng 9 chữ "vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ", đó là căn bản để thực hành phá ngã chấp, nếu có sở đắc sở cầu sở sợ là còn chấp ngã.

Chánh nghi

Tham thiền là chánh nghi, chánh nghi là chỉ cho tâm nghi chứ không cho tâm đi tìm hiểu so sánh để nuôi cái nghi tình cho thật mạnh, khi nghi tình mạnh tới cùng tột thình lình bùng bổ gọi là kiến tánh, kiến tánh là giác ngộ là biết được chính mình mới làm chủ được mình, tự làm chủ được mới tự do tự tại được, tự do tự tại là vĩnh viễn giải thoát tất cả khổ cho nên gọi là kiến tánh thành Phật.

Hồ nghi

Còn hồ nghi là lấy tâm đi tìm hiểu hoặc giải thích câu thoại đầu cho ra đáp án, đó không phải là tham thiền, hồ nghi chỉ có thể được giải ngộ chứ không được chính ngộ cũng như nhà khoa học Newton thấy trái táo từ trên cây rơi xuống mà sanh ra nghi vấn tại sao trái táo rớt xuống đất mà không bay lên Trời, từ đó ông chuyên tâm đi nghiên cứu tìm hiểu cuối cùng ngộ được rằng lực hấp dẫn vạn vật, đó là hồ nghi.

Hồ nghi chỉ có thể phát minh được đồ dùng của thế gian chỉ có giá trị đối với thế gian, vì không ngộ được chính mình không làm chủ được mình không đạt đến tự do tự tại được.

Biệt niệm

Ngoài nghi tình ra không cho khởi niệm khác không cho đè nén vọng tưởng không cho buông bỏ vọng tưởng cũng không cho trừ vọng tưởng, vọng tưởng khởi lên bao nhiêu cũng mặc kệ không cần biết tới có vọng tưởng hay không có vọng tưởng vì nghi tình chính là cây chổi automatic không cần sự tác ý, tự nó quét sạch tất cả.

Có vọng tưởng cũng quét không vọng tưởng cũng quét, nếu nghi tình được miên mật thì tất nhiên vọng tưởng không có kẻ hở mà nổi lên, hễ có khởi lên 1 niệm khác tức là đã có kẻ hở rồi.

Nghi ngộ

Phải biết nghi là nhân ngộ là quả, không có nhân thì không có quả cho nên bất nghi bất ngộ, nhân nhỏ quả nhỏ cho nên tiểu nghi tiểu ngộ, nhân lớn quả lớn cho nên đại nghi đại ngộ.

Nếu tham thiền lúc nghi tình nặng ảnh hưởng đến nhức đầu tức ngực khó thở đó là đại nghi, khi đó nhức nhiều chừng nào thì tốt chừng ấy chớ nên sợ, đó là tình hình tốt bởi vì đại nghi sẽ được đại ngộ.

Những lúc ngồi mà có tình trạng như vậy thì phải mau mau đứng dậy kiếm công việc làm nhưng vẫn tiếp tục tham cứu, nếu tham tới cảm thấy thần kinh căng thẳng quá chịu không nổi thì câu thoại đầu phải đề chậm lại từng chữ 1, chậm thật chậm mỗi chữ kéo dài độ 10 giây như vậy sự căng thẳng thần kinh sẽ dần được giải tỏa.

Tư cách

Tham Tổ Sư thiền không kể tư cách sơ tham lão tham thông minh dốt nát ngu si người già hay trẻ con, trong kinh Pháp Hoa Long Nữ 8 tuổi được thành Phật và nhiều Tổ dốt nát cũng tham thiền được kiến tánh.

Người tham thiền chỉ cần thống thiết về việc sanh tử dũng mãnh tham cứu thì bất cứ người nào cũng có thể kiến tánh thành Phật, không nên tự khinh khả năng thành Phật của mình.

Tự tâm

Tham thiền phải tin tự tâm, nếu chỉ tin Pháp môn tham thiền mà không tin tự tâm thì dù tinh tiến đến mức nào cũng không được kiến tánh nên ngài Bát Sơn nói "tin có chánh tà, tin tự tâm tức Phật là chánh, ngài tâm chấp có Pháp là tà".

Tức Phật là cần phải tham cứu cho sáng tỏ tự tâm và phải đích thân dẫn đến chỗ chẳng nghi mới gọi là chánh tín, còn như mập mờ lầm lạc đoán mò chỉ nói tức tâm tức Phật mà thật không muốn tham cứu rõ tự tâm thì gọi là tà tín.

Tự tánh

1 người quăng cục xương, con chó đuổi theo cục xương mà cắn còn con sư tử thì không ngó tới cục xương cứ cắn ngay người đó, người đó dụ cho tự tánh cục xương dụ cho lời nói của Tổ của Phật, nếu hướng theo lời nói của Tổ của Phật mà ngộ nghĩa là con chó, hướng vào tự tánh mà ngộ là con sư tử.

Cổ đức nói "tử ư cố hạ" có nghĩa là chết trong ngữ cú, "hướng cử khởi xứ thường đương" nghĩa là lời nói của Tổ vừa nói ra vừa nghe hiểu liền cho đó là ngộ nhưng sự hiểu ngộ đó còn nằm trong ý thức phân biệt mặc dù đúng lý thế gian rất logic, vì chẳng biết cần phải lìa ý thức mới chứng ngộ được cho nên bị Tổ chê là loại chó mực rất thông minh.

Phật là cần phải tham cứu cho sáng tỏ tự tâm và phải đích thân dẫn đến chỗ chẳng nghi mới gọi là chánh tín, còn như mập mờ lầm lạc đoán mò chỉ nói tức tâm tức Phật mà thật không muốn tham cứu rõ tự tâm thì gọi là tà tín.

Vô ký

Tham thiền nên tránh lọt vào vô ký không, Pháp môn khác chỉ cầu được dứt niệm nhưng tham thiền trái lại không cho dứt niệm tức là nghi tình phải luôn luôn tiếp tục không gián đoạn, nếu không có nghi tình cũng không có vọng tưởng thì lọt vào vô ký không là 1 thứ thiền bệnh Tổ Sư gọi là "ngâm nước chết".

Mặc dù lúc ấy cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh, trong mình cảm thấy nhẹ nhàng nhưng chấp lấy cái đó thì vĩnh viễn không được kiến tánh, chẳng thà có nghi tình có vọng tưởng còn tốt hơn.

Vậy tham thiền nếu chưa đến thoại đầu chớ nên bỏ câu thoại, có người bỏ câu thoại vẫn còn nghi tình cho là tốt thật ra không đúng vì có thể gián đoạn 1 khoảng thời gian lâu mà tự mình không hay, lại cũng dễ bị lọt vào vô ký không nữa.

Khởi tuyệt

Theo giáo môn thông thường sự tu hành phải trải qua 4 giai đoạn là tiến - giải - hành - chứng, ban đầu do tin rồi đi tìm hiểu tức là giải, theo sự hiểu mà thực hành, vừa thực hành vừa tìm hiểu thêm vừa tìm hiểu thêm vừa thực hành thêm, từng bậc tiến lên chứng từ thập tiến thập trụ thập hạnh thập hồi hướng thập địa cho đến đẳng giác diệu giác đó là cách tu thông thường.

Tổ Sư thiền thì không phải vậy, trước tiên cũng phải có tin có hiểu nhưng khi bắt đầu thực hành thì không được tìm hiểu nữa, thiền môn gọi là hành khởi giải tuyệt tức là đã bắt đầu tham thiền rồi thì sự tìm hiểu kiến giải phải chấm dứt cho nên tham thiền không cho hiểu thiền hiểu Đạo, tại sao vậy?

Vì đang tham thiền là đã có thiền có Đạo rồi, nếu còn đi tìm hiểu thiền tìm hiểu Đạo nữa thì cũng như mình đã có 1 cái đầu rồi còn sinh thêm 1 cái đầu thứ 2 nữa, Tổ Sư gọi "đầu thượng an đầu, trên đầu thêm đầu" thì cái đầu thứ 2 không những không có ích cho đầu bổn lai lại còn làm chướng ngại khổ sở cho cái đầu bổn lai cho nên phải mời bác sĩ cắt bỏ mới khôi phục sức khỏe lại được.

Vậy hiểu thiền hiểu Đạo còn không cho huống là đi tìm hiểu cái khác nữa, phải biết rằng ham tìm hiểu rất chướng ngại cho sự chứng ngộ thế nên hành khởi giải tuyệt là vậy.

Thực hành

Tổ Sư thiền chỉ chú trọng thực hành không cần lý luận nhưng khi đang thực hành sẽ tùy theo căn cơ trình độ khác biệt, tình chấp nặng nhẹ, kiến giải cao thấp và sự tham thích bất đồng của mỗi người mà sinh ra muôn ngàn lối tẻ sai biệt cho nên quyển sách này chỉ nêu ra những điều thực hành chung, còn nhiều chi tiết vi tế không thể kể hết.

Phải tùy bệnh mà cho uống thuốc vì thế mặc dù cách tham thoại đầu rất dễ những cũng phải có người lão tham hướng dẫn mới được, nếu tự làm tài khôn mà không đi đúng với tông chỉ chính xác của Tổ Sư thiền thì sẽ có thể trở thành phỉ báng Phật Pháp tạo tội địa ngục mà tự mình không biết, xin người học thiền để ý cho.

Cơ bản thực hành Tổ Sư thiền

Sep 18, 2024 thực hành
Vietnam miễn phí

duong loi thuc hanh to su thien

56 Nguyễn Hữu Huân
Giờ làm 08:00 - 15:30

Muốn đạt đến kiến tánh giải thoát hành giả tham Tổ Sư thiền cần phải thực hành đúng theo cơ bản như sau: 1 là tín tự tâm, 2 là nghi tình.

Tín tự tâm

Hỏi: Thế nào là tín tự tâm?
Đáp: Phải tin tự tâm mình đồng với chư Phật chẳng 2 chẳng khác tức là thần thông trí huệ của bản tâm mình không kém hơn chư Phật 1 tý nào cả.

Vì bản thể và dịu dụng của bản tâm mình cũng như chư Phật cùng khắp không gian và thời gian nên nói tự tánh bình đẳng bất nhị, nếu kém Phật 1 tý thì Phật cao hơn chúng sanh là bất bình đẳng, có cao có thấp là có nhị.

Nếu đã tin tự tâm sẵn đầy đủ tất cả năng lực thần thông trí huệ bản thể và dịu dụng cùng khắp không gian và thời gian như Phật nói "ngoài tâm chẳng có Pháp" thì đương nhiên thực hành được 9 chữ vô sở đắc vô sở cầu vô sở sợ.

Vì đắc là đắc ngoài tâm cầu là cầu ngoài tâm, bản tâm cùng khắp không gian và thời gian, ngoài không gian chẳng có không gian, ngoài thời gian chẳng có thời gian vậy thì ngoài còn chẳng có còn có gì để cho mình đắc để cho mình cầu.

Không đắc không cầu thì không còn gì để sợ, như thế không phá ngã chấp cũng tự phá ngã chấp rồi vì vô sở đắc vô sở cầu vô sở sợ là dùng để phá ngã chấp phá hết ngã chấp thì được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi.

Lại nếu không tin tự tâm chỉ tin Pháp môn Tổ Sư thiền thì dù siêng năng tu tập cách mấy cũng không thể đạt đến kiến tánh, tại sao vậy? Vì không tin tâm mình thì làm sao tự hiện được bản tâm mình, tự hiện bản tâm tức là kiến tánh nên nói tin tự tâm là cơ bản của chánh Pháp.

Nghi tình

Hỏi: Thế nào là nghi tình?
Đáp: Tức là đề câu thoại đầu hỏi thầm trong bụng cảm thấy không biết thì gọi là nghi tình.

Bất cứ đi đứng nằm ngồi làm việc bằng tay chân hay trí óc... đều phải có nghi tình, có nghi tình mới được gọi là tham thiền, nói 1 cách khác là dùng cái tâm không biết tức là nghi tình của bộ não để chấm dứt tất cả cái biết của bộ não.

Dù nói chấm dứt khỏi cần tác ý chấm dứt, có nghi tình thì đương nhiên tự nó chấm dứt vì tất cả cái biết của bộ não đều là tướng bệnh cũng là biết của người mù, ví như người mù không thấy mặt trời hỏi người mắt sáng, người mắt sáng nói mặt trời có tròn có nóng, người mắt sáng diễn tả mặt trời thì đúng nhưng người mù chấp tròn với nóng cho là mặt trời thì không đúng rồi.

Muốn giữ nghi tình trước tiên phải chấm dứt những tìm hiểu biết và ghi nhớ biết sau chấm dứt luôn cái tùy duyên biết, tùy duyên biết là khỏi cần tìm hiểu cũng biết như đi đứng nằm ngồi ăn mặc.

Nên ngài Lai Quản nói rằng lúc công phu đến thoại đầu thì đi chẳng biết đi ngồi chẳng biết ngồi, công phu đến thoại đầu thì câu thoại tự mất tất cả cái biết của bộ não đều hết khi ấy tham thiền không biết tham thiền ăn cơm không biết ăn cơm, luôn cả cái biết cũng không biết luôn.

Công phu đến đây là gần kiến tánh, người đời coi mình như người khờ ngốc nhưng sự thật sẽ phát đại trí huệ, cuối cùng cái nghi tình bùng nổ cái tâm không biết của bộ não cũng tan rã, bấy giờ cái biết và không biết của bộ não đều sạch tướng bệnh có nghĩa là tác dụng của bộ não đã hết.

Trong sát na tướng mạnh, cái biết của bản thể Phật tánh hiện ra gọi là kiến tánh thành Phật, Tổ nói "tri chẳng có 2 người, Pháp chẳng có 2 thứ".

Tri chẳng có 2 người

Hỏi: Tại sao tri chẳng có 2 người?
Đáp: Vì cái tri của bản thể gọi là chánh biến tri cùng khắp không gian và thời gian, chỉ có 1 cái tri tự tánh bất nhị vốn chẳng phải 1 hay nói 1 chỉ là phương tiện biết thật có thật có 1 thì phải có 2 3 cho đến muôn ngàn, nếu có thêm cái tri của bộ não tức là không cùng khắp thì thành 2 cái tri tức là 2 người.

Pháp chẳng có 2 thứ

Hỏi: Sao nói Pháp chẳng có 2 thứ?
Đáp: Vì tất cả Pháp đều do tâm tạo, bản thể của tâm đã cùng khắp không gian và thời gian thì Pháp của tâm tạo ra cũng phải cùng khắp như bản tâm, nếu có Pháp nào do bộ não chấp nhận là Pháp thật thì Pháp thứ 2 này cũng là tướng bệnh.